Tám phố Sài Gòn xưa
1.
Trong một lần “trà dư tửu hậu” có đủ các tay văn nghệ sĩ của cả ba miền
nước Việt ở 81 Trần Quốc Thảo, một anh bạn bỗng cao hứng ngâm mấy câu thơ “Sài
Gòn đi rất chậm buổi chiều/ Cánh tay tà áo sát vòng eo/ Có nghe đôi mắt vòng
quanh áo/ Năm ngón thơ buồn đứng ngó theo…” (Tám phố Sài Gòn, Nguyên
Sa), rồi đặt câu hỏi với mọi người: “Theo nhà thơ Nguyên Sa, thì Sài Gòn có…
tám phố, vậy mấy ông ở Sài Gòn lâu năm có biết đó là tám phố nào không?”. Cuộc
cãi vã, tranh luận ì xèo nổ ra, nhưng rốt cuộc cũng chẳng ông nào, bà nào xác
định đủ Sài Gòn có bao nhiêu phố?…
2.
Khác với Hà Nội xưa được mặc định với 36 phố phường và gắn với cái tên
“Hàng” như Phố Hàng Bạc, Hàng Thau, Hàng Đào… Sài Gòn được thành lập từ năm
1698 với tên là Phủ Gia Định, và sau này trở thành “Đô thành Sài Gòn”, thủ đô
của Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và từng được mệnh danh là “Hòn ngọc Viễn
Đông”, song cũng chẳng có quy định nào về phân chia cụ thể từng phố, ngoại trừ
khu vực tập trung về văn hóa và giải trí ở quận Nhất, bao gồm các con đường lớn
như Bonard (Lê Lợi), Tự Do, Nguyễn Huệ, kéo dài từ rạp Rex đến chợ Bến Thành và
nhà ga xe lửa thời bấy giờ, là những địa điểm tấp nập nam thanh, nữ tú, người
dân khắp nơi đổ về dạo chơi mua sắm vào mỗi chiều Thứ Bảy, Chủ Nhật thời bấy
giờ, và đó cũng là khoảng thời gian mà nhà thơ Nguyên Sa sáng tác bài thơ “Tám
phố Sài Gòn” (khoảng cuối thập niên 1960, đầu thập niên 1970). Bài thơ được ông
Nguyễn Đình Vượng đăng trên báo Văn, tờ tạp chí có uy tín nhất về văn học lúc đó
ở miền Nam.
“Tám phố Sài Gòn” được tiếp nối với khổ đầu mà anh bạn văn nghệ vừa ngâm
nga là “Sài Gòn phóng solex rất nhanh”, rồi ở khổ thứ ba là “Sài Gòn
ngồi thư viện rất nghiêm”. Đấy là “Thư viện Quốc gia” nằm ở đường Gia Long
(nay là Lý Tự Trọng), thu hút rất đông những người trí thức, sinh viên, học
sinh đến đọc sách và cũng là thú vui thanh nhã của người Sài Gòn. Ở khổ thơ thứ
tư, Nguyên Sa viết “Sài Gòn tối đi học một mình”, chỉ về thời gian, và
chắc nhắc đến các lớp học ngoại ngữ, vì lúc đó Sài Gòn rất ít nơi học thêm và
cũng ít người học thêm.
Rồi ông chuyển sang “Sài Gòn cười đôi môi rất tròn”, “Gối đầu trên
cánh tay”, “Sài Gòn nắng hay Sài Gòn mưa”… là những trạng thái tâm lý tình
cảm của những con người yêu nhau, và cái chính là họ “Thứ Bảy Sài Gòn đi
Bonard”, một đại lộ chính, trung tâm như đã nói ở trên để đến rạp Rex, Vĩnh
Lợi, hay ghé thương xá Tax, vào các quán bar hay vũ trường lả lướt bay bướm
trong các bước nhảy tân kỳ của lớp trẻ bấy giờ… Để rồi cuối cùng ở khổ thơ thứ
tám nhà thơ viết: “Sài Gòn mai gọi nhau bằng cưng/ Vành môi nghiêng cánh
xuống phân vân/ Lưng trời không có bầy chim én/ Thành phố đi về cũng đã xuân…”.
Rõ ràng, toàn bài thơ cũng chẳng nói đến cụ thể một phố nào cụ thể ở Sài
Gòn, ngoại trừ tên đại lộ Bonard lúc ấy người Sài Gòn ai cũng biết!
3.
Phải đến hôm nay, khi ngồi viết về thơ Nguyên Sa, ngẫm nghĩ về người
thầy giáo dạy Triết Trần Bích Lan, cùng những giai thoại về ông, cùng nguyên
nhân ra đời của bài thơ cũng rất hóm hỉnh, khi ông Nguyễn Đình Vượng, chủ nhiệm
tạp chí Văn, đề nghị nhà thơ Nguyên Sa viết bài cho tạp chí với yêu cầu “viết
về xuân” (ý cho báo Xuân), sau đó lại mở rộng ra là… “viết gì cũng được”.
Nguyên Sa đã viết và nộp bài thơ “Tám phố Sài Gòn”, gồm tám khổ
thơ, 32 câu thơ và duy nhất chỉ có câu thơ cuối cùng có một chữ “Xuân” (Thành
phố đi về cũng đã Xuân), và chợt ngộ ra trong những câu chuyện rất… tiếu
lâm của nhà thơ khi kể chuyện cho học sinh trong giờ dạy Triết, ông hay sử dụng
từ “bát phố”, có nghĩa là “đi chơi phố, đi dạo phố”, và người Hà Nội xưa cũng
hay nói “đi bát phố” và người Sài Gòn thấy hay hay nên cũng nói theo. Mà “Bát”
là từ Hán Việt, Có nghĩa là “rời, ra khỏi nhà, đồng âm với từ “Bát” có nghĩa là
“tám”, bài thơ cũng có “tám khổ” do đó nhà thơ thuận tay đặt luôn là “Tám phố
Sài Gòn”, tức dạo phố Sài Gòn, chứ Sài Gòn nào có “tám phố” mà tranh cãi. Đúng
không mọi người?…
Trần Hoàng Vy
Từ trang DĐQGHCTC
No comments:
Post a Comment