Thương Nhớ Hoàng
Lan
Tôi sinh ra dưới một mái chùa. Nghe kể rằng sư
phụ tôi khi ấy còn trẻ, một hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi: "Mô Phật, sao
sau chùa lại phơi tã lót?". Nghe chuyện đời cha tôi, thầy bảo: "Hãy
nhớ ngày này. Nếu có cơ duyên, mười năm sau ta sẽ trở lại". Trở về thầy bỏ
tăng viện, lên một ngọn núi hẻo lánh trong rú xa, dựng mấy nếp nhà cổ. Từ ấy,
thầy ẩn tu, hiếm khi xuống núi.
Lớn lên, tôi giống cha như đúc và rất được mẹ
yêu chiều. Cha tôi mắt sáng, mũi cao, tiếng nói trầm ấm, tính tình hiền hòa
trung thực. Khi còn là một chú tiểu đầu để chỏm, người đã nổi tiếng thông minh,
mười lăm tuổi chép rành kinh chữ Hán. Rồi vì học giỏi, được cử làm giáo sư ở
trường Trung học Bồ Ðề, một trường phổ thông tư thục của Giáo hội. Lúc người sắp
được phong Ðại Ðức thì gặp cô bé nữ sinh tinh nghịch, có đôi mắt hút hồn, đôi
môi đầy đam mê và cái tính thích gì thì làm cho bằng được. Ban đầu, cô bé chỉ định
quấy phá chơi để thử bản lĩnh của thầy. Nhưng rồi tình yêu là lửa, chính người
muốn đốt lại cháy. Cả chùa ngẩn ngơ khi người thanh niên đạo hạnh vòng tay thưa
trước sư cụ trụ trì:
"Yến bệnh nặng đã bốn tháng rồi, sợ rằng cô
ấy chết. Thầy dạy con tu hành để cứu chúng sinh. Nay con có thể cứu một sinh
linh, sao lại khước từ".
Cha tôi rời chùa, cô Yến khỏi bệnh rồi hai người
thành vợ thành chồng. Ông bà tôi để lại một ngôi nhà, cha tôi cho dỡ đi, xây
vào chỗ đó một ngôi chùa tư. Ðã không bỏ đời theo đạo được, thì ông đem đạo về
giữa đời. Sau khi đã có con, ông vẫn ăn chay, mặc áo nâu và tụng kinh sớm chiều.
Có lần mẹ tôi đi chợ mua một xâu ếch, những con ếch theo phản xạ cứ chắp hai
chân trước vái lia lịa. Một bà đi ngang bảo mẹ tôi:
"Mấy
con ếch lạy khéo không thua thầy M.H".
Rồi bà cười hả hả:
"Ði tu mà chẳng chót đời, làm thân con ếch
cho người lột da".
Tính mẹ tôi mau nước mắt, cứ vừa đi vừa khóc
thút thít cho đến lúc tới nhà. Tối đó bà kèo nhèo mãi, năn nỉ mãi cha tôi tội
gì không để tóc, ngả mặn, làm người trần cho sướng cái thân. Tu kiểu này, người
ta nói không chịu nổi. Cha tôi chỉ cười, dường như chẳng để tâm. Cả đời người
không tranh giành với ai mà như có phép thần thông, chạm vào đâu thì phất lên đến
đó. Cơ sở làm hương trầm của người càng phát triển, mẹ tôi càng béo đẹp ra thì
lời đàm tiếu của thiên hạ càng rần rần. Cuối cùng, chẳng hiểu vì sao, mẹ bỗng đột
ngột bỏ đi mất tăm...
Cô ruột tôi giận lắm bảo:
"Mẹ mi là con yêu tinh, khi trước đã phá đời
tu của cha mi, chừ lại phá luôn đời tục của ổng". Ai cũng khuyên đăng báo
tìm nhưng cha tôi chỉ nói: "Ðừng".
Ông không trách móc gì, nhưng có lẽ ông buồn, tiếng
tụng kinh đêm khuya nghe chừng khắc khoải. Chao ôi, với những con thuyền khắc
khoải ấy, kiếp nào cha mới đến Tây Phương?
Cơ sở làm hương từ đó phó mặc cho cô tôi. Cô tôi
cho chặt cây, nhổ cỏ, sửa sang lại cho khu vườn sáng sủa: "Thiệt là hư sự,
ai đời lập chùa mà lại trồng hoàng lan trong sân. Mùi hoàng lan là mùi ma, hèn
chi ma chướng nó phá cho như thế ni".
Tôi dân dấn nước mắt nhìn người ta chặt cây
hoàng lan, cành lá vứt bừa bãi trên mặt đất. Ngày xưa, gội đầu xong mẹ tôi thường
hái hoa giấu vào bối tóc cho thơm. Bây giờ người đã đi, hoa cũng không còn...
Năm tôi mười tuổi, có vị Ðại Ðức trên núi về
thuyết pháp ở chùa Diệu Dế. Tôi đi theo cô tôi đến nghe. Khi trở về tôi xin xuất
gia. Cha tôi bảo: "Kinh sách ở đây, chuông mõ ở đây, con còn đi đâu?".
Tôi chỉ lắc đầu...
Nơi thầy tôi ẩn tu là Bích Vân am - am Mây Biếc.
Mười năm khai sơn, thầy đã cùng đồ đệ trồng hơn hai chục mẫu bạch đàn và ba
ngàn giò phong lan đủ loại. Các sư huynh dạy tôi chăm hoa, tưới cây mỗi sáng.
Buổi chiều đi học ở trường Nam Giao. Năm mười lăm tuổi, tôi bắt đầu chướng
tính. Sư huynh hạch tôi:
"Bạch thầy, Ðăng Ninh trốn học, la cà ở
quán cà-phê Tím. Người quanh đó ai cũng chê cười, họ nói cô ruột Ninh làm hương
giàu có, cúng dường nhiều tiền nên thầy thả cho Ninh tha hồ tự tung tự
tác".
Tôi ức, lầm lì không nói, thầy cũng không quở.
Tính thầy rất nghiêm, không mấy khi la rầy mà đồ đệ ai nấy tuân lời răm rắp. Chỉ
riêng với tôi, không hiểu sao thầy đặc biệt khoan thứ. Sợ thầy phạt, đợi lúc sắp
vào tụng kinh, tôi biện bạch: "Bạch thầy, ngày xưa cha con thường bảo: tu
trên núi dễ, tu giữa chợ mới là khó. Không ở giữa đời làm sao hiểu đời đục mà
tránh?". Thầy hỏi: "Ai bảo con là đời đục? Ðời không đục, không
trong".
Tôi hụt hẫng, không hiểu ý thầy định nói gì?
Tu trên non bây giờ thật ra cũng không phải dễ.
Thầy tôi tránh đời vào núi sâu, nhưng rồi vườn lan Mây Biếc nổi tiếng quá nên
người trần lại kéo lên thưởng ngoạn. Thứ bảy, chủ nhật, học trò đạp xe lác đác
trắng trên con đường mòn tới thảo am. Mấy cô nữ sinh nhỏ tuổi mê hoa ngẩn ngơ
ngắm bông súng tím trong hồ, chạy vào đến tận hiên, chỗ thầy ngồi viết sách. Thầy
không quở, cũng không ngẩng lên nhìn. Một cô bé chạy đến gần tôi, nhìn làn
sương li ti mà tôi đang xịt lên những chồi đang đơm nụ. Cô hỏi tôi tên hoa, tôi
giảng:
"Ðây là giống Tiểu Hồ điệp, nghĩa là bươm
bướm nhỏ. Em thấy không, trông xa chấp chới như đàn bướm cải mầu vàng". Cô
chìa hai bàn tay với những ngón búp măng, hứng sương. Tôi cau mày: "Này, đừng
nghịch". Cô bé cứ đùa với những bụi nước, chẳng để ý lời tôi. "Anh cứ
tưới đi, em cũng là Lan". Tôi cáu, xịt cho nước rơi ướt cả tóc, cả áo cô
bé. Mấy cô bạn cười rúc rích, khi về có cô còn nói vọng lại: "Con Lan hên
quá, gặp chú tiểu vừa đẹp trai, vừa quậy". Tôi tủm tỉm cười. Sư huynh tôi
cáu kỉnh: "Mấy con Thị Mầu đời nay quá quắt lắm. Bay không biết quyến rũ
sư tăng là tội đọa địa ngục hử?". Tôi cự: "Người ta chỉ đùa thế, có
gì mà gọi là quyến rũ".
Từ đó, vài ba hôm một lần, Lan lại đến giúp tôi
tưới hoa. Tôi dạy cho cô biết về phong lan, đấy là cả một thế giới còn đa dạng
hơn thế giới người. Phượng Vĩ đỏ rực, Tuyết Ðiểm thì trắng, Vũ Nữ thì như đang
múa trước gió. Lan phụng phịu: "Hoa nào cũng có tên riêng, chỉ em không
có". Tôi nhìn khuôn mặt cô, đôi mắt trong trẻo với cái miệng cười hồn
nhiên như trẻ thơ.
"Vậy tôi đặt cho cô một cái tên. Tên cô là
Tinh Khôi".
Thầy biết tình thân giữa tôi và Lan. Sư huynh
không vui lòng, thầy chỉ bảo: "Không can gì". "Bạch thầy, người
này có bạn thì người kia có bạn, rồi con gái kéo đến đầy thảo am, còn cái thể
thống gì nữa?". Thầy gật đầu. Chiều lại, tôi mài mực hầu thầy, thầy đem
cho tôi xem bộ tranh mười bức vẽ mục đồng chăn trâu:
"Ðây là thập mục ngưu đồ, cũng là quá trình
tu học của một con người. Trâu không là trâu, mà chính là cái tâm ta đó".
Tôi động lòng, hỏi: "Bạch thầy, con xem bức
vẽ cuối cùng, không còn trâu chẳng còn người, chỉ còn trăng soi. Vậy cớ gì phải
sống trong dây trói. Ngày xưa Tuệ Trung Thượng Sĩ là bậc ngộ đạo mà không kiêng
rượu thịt, vì chay mặn chỉ là hình tướng bên ngoài, không can hệ đến sự giác ngộ
bên trong".
Thầy cười: "Ðúng, con ạ, với bậc đắc đạo là
thế. Nhưng khi ta còn là một người phàm, thì cũng như con trâu kia, phải có sợi
dây buộc, có người chăn dắt. Ðến khi cái tâm vững rồi, sáng rồi mới có thể như
trâu đen thành trâu trắng, không ràng không buộc, chẳng những nhởn nhơ trên cỏ
xanh mà còn bay lên đến chín tầng mây".
Tôi vái thầy mà thưa: "Con hiểu rồi, nhưng
nhà chùa chẳng thể xua đuổi ai. Từ mai con xin thôi không giữ vườn lan nữa".
Mấy hôm sau, Lan thấy sư huynh ra tưới vườn, còn
tôi thì chẻ củi. "Anh không thích phong lan nữa sao?". "Không.
Muôn hồng nghìn tía, chẳng qua cũng chỉ để nhìn trong chốc lát. Một đời tôi chỉ
riêng nhớ hoa hoàng lan". Tôi giảng cho cô bé biết hoa hoàng lan cánh mảnh
mai, vàng như mầu chim hoàng yến. Thuở trước, cứ sắp rằm, mồng một, các bà hàng
hoa lại đến mua, họ gói hoa trong lá chuối, từng gói nhỏ xinh xinh tỏa thơm
ngây ngất. Lan bảo: "Thích ghê, em chưa thấy bao giờ". Ừ, loài cây ấy
có lẽ giờ đây đã tiệt giống rồi hay sao, nhiều lần theo sư huynh đi chợ mua
bông chuối, tôi để ý tìm mà không thấy nữa. Tôi lớn lên lòng bâng khuâng như
thiếu vắng một thứ gì, cứ mơ hồ nhớ nhớ, thương thương...
Cuối năm, anh em tôi kẻ kéo, người đẩy, chở
phong lan xuống phố đổi gạo. Ông chủ tịch hội hoa cảnh hài lòng lắm khi thấy những
giò mũm mĩm với chồi xanh đầy nụ. Ba bao gạo lớn được bưng ra. "Cha ơi,
con có làm một ít bánh trái cây để cúng dường". Tôi nghe tiếng quay lại, sững
người vì thấy Lan. Ông chủ tịch âu yếm bảo: "Cúng dường thì phải cung
kính. Con phải tự lên chùa lạy Phật mà dâng". Tôi hãi hồn, vội nói:
"Thôi thôi, khỏi phiền nữ thí chủ. Nhận ngay ở đây". Lan bật cười, lại
cái cười tinh khôi. Rồi Lan nhìn tôi buồn thiu: "Sao lâu nay anh không ra
vườn? Em lên chùa, biết anh trong bếp mà mấy chú không cho vào. Riết rồi em buồn
không muốn đến nữa".
Mấy buổi sau, tôi theo các bạn cùng lớp vào
quán. Lan ngồi ở đó, sau chiếc bàn con bên cửa sổ. Các bạn tôi ai cũng nhìn về
phía Lan còn cô bé chẳng nhìn ai, cứ lặng lẽ một mình. Ngồi ở một bàn xa mà tôi
như thấy cả bầu trời hoàng hôn tím, tím ngát ngoài kia đang in trong đôi mắt
Lan. Mãi đến khi chúng tôi ra về, Lan mới ngoái nhìn, ánh mắt thơ ngây mà não
nùng. Bỗng dưng đỏ mặt, rồi tôi thấy hoảng sợ vì mình đã đỏ mặt...
Một người con gái chiều nào cũng ngồi ở quán
Tím, chẳng bao lâu đã thành đề tài để bọn con trai bàn tán.
"Con Lan sữa tươi trông xinh vậy chứ nó mắc
bệnh, bệnh sợ đàn ông. Ðếch thằng nào đến gần được, nó tránh như tránh
tà". "Không phải đâu, nó giữ giá để chờ lấy Việt kiều, thằng Hùng ở
Cali về ngày nào cũng trực ở nhà nó". "Giữ giá cái gì, nó ưa thằng Quắn
chạy bàn ở cà-phê Tím. Tao thấy nó ngồi một bàn với thằng Quắn, khóc rưng rức".
Tôi im lặng, một lát sau mới bảo: "Khó tin". "Ở đời chuyện gì mà
chẳng có thể xảy ra"
Bạn tôi nói, vẻ ông cụ non - Chiều qua chính mắt
tao thấy nó chạy ra sau quầy đưa bức thư cho thằng Quắn".
Ðạp xe về đã đến quá lăng Tự Ðức, tự nhiên tôi bứt
rứt không chịu được. Tôi quay xe, đạp về nhà Lan. Mưa phùn lướt thướt trên con
đường về Bao Vinh xa tắp. Mẹ Lan hỏi: "Nhà chùa có việc gì mà nhắn cháu lên?
Thấy Quắn về nhắn, tôi cho cháu đi ngay rồi". Tôi tái mặt, không kịp chào,
đạp xe đi như tên bắn. Tim tôi dội thình thịch vì âm vang những lời của sư
huynh khi Lan mới lên thảo am lần đầu: "Cô gái này đẹp đẽ thanh tú nhưng
đuôi mắt dài quá, môi mỏng, cổ cao, tai nhỏ. Ðấy là tướng hồng nhan mệnh yểu..."
Trời nhập nhoạng tối, tới Nam Giao. Nhìn dáo dác
hai bên đường, tình cờ thấy Quắn và Lan cùng ngồi trong quán ốc. Quắn gọi rượu,
đang ép Lan uống. Lan lắc đầu. Quắn cố nài. Tôi đi vào, đấm mạnh vào mũi Quắn.
"Ðồ lừa đảo. Từ nay chừa cái thói dỗ gái đi".
Quay sang Lan, tôi nạt "Ði về!". Không
biết Lan có bị một thứ thuốc mê gì không, mặt ngây ngây như bị bỏ bùa. Tôi chở
Lan đi. Quắn biết tôi có võ Thiếu lâm nên đành chịu phép, hậm hực, chùi máu mũi
nhìn theo, cái nhìn của con thú mất mồi...
Trên đường về, Lan tỉnh lại, gục mặt vào lưng
tôi khóc: "Em nhờ Quắn chuyển đến anh nhiều thư, anh có nhận được
không?". Tôi cau mặt: "Em khờ lắm, sao lại đi với thằng Quắn?".
"Quắn bảo em uống vài chén cho ấm rồi lên đàn Nam Giao chờ Ninh đến".
"Em đừng quên, tên em là Tinh Khôi. Ðừng dại dột để bọn lưu manh làm nhơ bẩn".
Nước mắt Lan chảy thấm qua chiếc áo lam của tôi, thấm vào đến da thịt. Dừng xe,
tôi ngồi xuống vệ cỏ bên đường. Lan ngồi bên tôi. "Ðêm nào cũng nằm mơ thấy
anh dắt em đi thăm vườn phong lan. Mình về trồng lan trong sân nhà em đi, có
thích hơn không?". Tôi không trả lời, ngắt những cọng cỏ, vò nát trong đôi
tay run run. Trên kia, trăng sáng quá, tròn và rực rỡ như chiếc mâm vàng giữa
trời. Bỗng nhiên lòng tôi miên man nhớ những câu chuyện cha tôi vẫn kể ngày
xưa... "Em có thích nghe chuyện cổ tích không?". "Thích".
Tôi kể cho Lan nghe chuyện người tử tù đội chiếc mâm vàng đầy nước đi từ cổng
hoàng cung vào trước ngai vua mà không sánh ra ngoài một giọt, Lan nghi ngờ:
"Sao có người làm được như thế?". Tôi gật đầu: "Ngày ấy, nhà vua
cũng đã hỏi như vậy. Vị thiền sư trả lời: "Bệ hạ đã hứa nếu y làm được thì
sẽ tha tội chết. Vì lẽ sống chết của y, nên dù việc khó vô cùng mà y vẫn chăm
chăm làm bằng được. Nay nếu bệ hạ cầu giải thoát cũng như người này cầu sống,
thì việc tu hành dù khó mấy cũng có thể vượt qua". Lan ngước nhìn tôi, lần
đầu tiên tôi nhận ra trong hai cái giếng êm như nhung của mắt cô bé những tia
sáng ương ngạnh lạnh lùng. "Em hiểu rồi. Anh xem tu hành là chuyện sinh tử
của anh. Vậy nếu em lại xem anh là chuyện sinh tử của em thì sao? Anh và em, ai
đi trọn đường, ai bỏ cuộc?". Tôi bảo: "Em nói gì thế? Chuyện sống chết
mà nghe cứ như là trò chơi sấp ngửa của trẻ con". Lan cười... Bàn tay nhỏ
nắm lấy tay tôi, ngón thon vuôn vuốt như cánh hoa ngậm sữa. Vẻ đẹp này có phải
phù du? Vẻ đẹp này là sắc hay là không? Chỉ thấy ngợp vì trăng. Trăng sáng quá.
"Thôi, về đi em". Tôi đạp xe, trước mặt tôi chập chờn lấp lóa những
con đường. Những mê lộ giữa đạo và đời, giữa ma và Phật...
Việc lộn xộn ở quán ốc chẳng mấy ngày đã đồn đến
chùa. Cô tôi biết, tốc lên ngay. Tôi bảo: "Cô đừng lo. Chẳng có chuyện gì
đâu". "Không có lửa, sao có khói. Tại quán ốc, đánh lộn, giành gái.
Thế còn gì là tu hành? Tau mà gặp con ma nữ đó, tau tước từ dưới tước
lên". Tôi ngẩn người một lúc rồi hiểu ra, không nín được cười. Cô bực tức:
"Cháu tưởng chuyện gì cũng cười là xong sao?"
Quả là chuyện không thể cười mà xong. Mấy hôm
sau, gia đình Lan mời tôi về.
"Con ma nữ" đã uống hai mươi viên thuốc
ngủ, may sao nhà biết được chở đi cấp cứu. Mẹ Lan chắp tay lạy tôi như lạy Bồ
Tát: "Bác biết tính con Lan lắm, từ nhỏ nó đã nói là làm, đã làm là làm tới
cùng. Sợ e cứu thoát lần này, nó lại tự sát lần nữa. Con cứu nó cho bác đi
con". Tôi cuống quýt: "Bác bảo con làm sao được?". Con cứ giả vờ
ừ đi, bây giờ nó mới lớn, tính còn ngông cuồng, vài ba năm nữa chững chạc rồi tự
nhiên nó hiểu ra". Ông chủ tịch hội hoa cảnh mắt đỏ au, nhìn tôi chờ đợi một
lúc rồi bảo vợ. "Nói như bà cũng khó. Chú Ninh đây tướng mạo khôi ngô, trước
sau rồi sẽ có phước được che lọng vàng. Lẽ nào vì con mình mà để người ta mang
tai mang tiếng".
Tôi thở dài: "Cháu đi tu không phải là mong
lọng vàng che đầu. Chỉ vì nguyện giữ thân trong sạch để tụng cho mẹ cháu một
nghìn lần kinh Thủy Sám".
Nhớ tới mẹ, tôi bất giác đau đớn trong lòng, đứng
dậy đi...
hoa hoàng lan (nguồn internet)
Tôi về chùa, từ ấy không đi đâu. Thầy bảo:
"Sao con bỏ học?". Tôi nói: "Suối ở xa, con muốn ra triền núi
đào giếng". Tôi tự đày mình trong những nhát cuốc trên sỏi đá, đêm về tụng
kinh, vẫn đôi khi chợt nghe tiếng mình khắc khoải. Có lúc nửa đêm chợt tỉnh, thấy
thầy ngồi bên giường, lâm râm niệm chú.
Tôi hốt hoảng vùng dậy: "Bạch thầy".
Thầy tôi bảo: "Con giật mình, nói mê luôn, hất tung cả chăn".
Tôi nói: "Con tỉnh rồi. Rước thầy đi nghỉ,
con xin ra bệ Phật niệm Cầu An". Thầy lặng lẽ một lúc, rồi bảo tôi:
"Tâm không an, có cầu cũng vô ích".
Tôi gật đầu thú nhận. Bao nhiêu đêm, cứ chợp mắt
là thấy Lan hiện ra, mảnh dẻ, thanh thoát, đầu đội chiếc mâm vàng sóng sánh nước
đi thẳng đến bờ vực.
Tôi nghe tiếng thét của nàng vang động cả giấc
mơ, nàng nhào xuống rơi thẳng vào không gian mênh mông như chiếc lá lìa cành
trước gió. "Thầy ơi, nếu vào Niết bàn mà phải đạp lên một chiếc lá, Phật
có làm không? Xin thầy cho con hay, trời đất nặng hơn hay chiếc lá nặng
hơn?". Thầy nhìn vào mắt tôi: "Chỉ có con tự trả lời được thôi. Ngày
mai con hãy về, cứ nhìn thẳng vào nghiệp duyên mà tự quyết định lòng
mình".
Tôi lắc đầu: "Thầy quên sao? Con đã thề khi
nào đào xong giếng mới xuống núi".
Ra xuân, đường lên núi khô ráo. Hai tay tôi ướt
bùn đỏ, những giọt nước đầu tiên đã ứa ra từ lòng đất sâu. Tôi chạy về chùa, định
vào trình thầy nhưng người đang làm lễ. Có người thí chủ dâng hương trong bệ Phật,
mùi trầm mới thơm thơm trong không gian.
Ðang dội nước rửa tay, tôi nghe có người bước đến.
"Chú Ninh!".
Tôi ngẩng lên. Mẹ của Lan. "Bác lên chùa cầu
cho em đi bình an. Có cái này, em nó gửi lại...".
Bà đưa cho tôi một cái túi nhỏ, rồi vừa quay đi
vừa đưa khăn lau mắt.
Những dòng chữ trong thư, mảnh mai và run run
như những cánh lan.
"Bốn trăm ngày chờ anh ở quán Tím, cuối
cùng em cũng hiểu ra là mình thua cuộc. Ðã đi mà chẳng tới, lẽ ra thì phải chết.
Nhưng em chết thì anh làm sao yên lòng đi trọn con đường tu. Vì vậy, em đã quyết
định lấy chồng xa xứ. Trong cái túi này là cây hoàng lan con, em nguyện tìm cho
anh bằng được rồi mới ra đi. Em vẫn nhớ lời anh nói, một đời anh chỉ thích
hoàng lan...
Người ta cứ bảo là em khôn, lấy ông Việt kiều đi
Tây đi Mỹ cho sướng chứ theo chi chú tiểu trọc đầu. Nhưng đi Tây đi Mỹ không phải
là chí nguyện của em. Lấy một người mình không thương, đến một nơi xa lạ với em
còn khổ hơn là chết. Xin anh hãy tụng cho em một lần kinh cầu siêu thoát, một lần
thôi...".
Bất giác, tôi òa khóc. Nước mắt theo nhau lăn
trên má tôi như ép cho hết những dòng tục lụy cuối cùng. "Cứ khóc đi
con" - Thầy vỗ về khi thấy tôi luống cuống che mặt - Thầy chưa nghe nói gỗ
đá thành Phật bao giờ".
Tôi nức nở: "Bạch thầy, thầy có cho con trồng
cây hoàng lan không?"
Thầy bảo: "Cỏ cây vô tội, sao mình không thể
bao dung?". Rồi một tay dắt tôi, một tay cầm túi cây đến bên góc vườn, thầy
tự mình trồng xuống.
Tôi tưới cây bằng nước giếng chùa. Hoàng lan lớn
lên, năm này qua năm khác, nở hoa vàng mong manh. Mong manh như tất cả những gì
đẹp trên thế gian.
Tôi cầm lòng thôi thương, thôi nhớ.
Khuyết
Danh
304Đen
– llttm - YD
1 comment:
Tác giả Trần Thuỳ Mai
Post a Comment