Chúng
ta sẽ không có một câu chuyện "điếu thuốc lá". Các anh ở Pháp về sẽ
thuật cho bạn nghe những chuyện đau đớn, khi túi đã cạn tiền, những phút cảm
động, khi nhặt được mấy mẩu đầu thuốc lá trong khe tủ, dưới gầm bàn, trên ổ
khóa. Những thi sĩ sẽ ca tụng cái thủa thần tiên ngồi ngắm khói thuốc lá giữa
lúc câu thơ sắp hiện hình trong khối óc. Nhiều nhà văn sẽ kể lại cái giật mình
khinh hoảng trong đêm khuya, khi chuông đồng hồ rè rè điểm hai tiếng, vội liếc
nhìn đĩa gạt tàn thuốc lá đã cao có ngọn...
Nhưng
chuyện của tôi đây sẽ không có những thú vị, những ủy khúc nên thơ như thế. Nó
sẽ là xin nói ngay, một câu chuyện trẻ con, rất trẻ con.
Thời
ấy, tôi mới độ chín mười tuổi.
Một
hôm tôi đứng xem anh tôi và ông Cửu Thầy đánh cờ. Anh tôi hai tay ôm đầu, mắt
đăm đăm nhìn xuống bàn cờ chừng để tìm gỡ một nước bí. Còn ông Cửu Thầy thì
điềm tĩnh, không nghĩ ngợi, ngửng mặt như chú mục vào một người tưởng tượng,
đương từ cửa đi vào. Sự thực, thì ông ta chẳng nhìn gì hết, vì một lẽ rất giản dị:
ông ta mù.
Thỉnh
thoảng cặp môi mỏng và thâm của ông ta lại bỏ rơi nụ cười hầu bất tuyệt để kéo
một hơi thuốc lá, rồi khi điếu thuốc đã đặt y nguyên chỗ cũ trên thành bàn cờ
sơn son, nụ cười lại trở về đậu lên cái miệng hé mở, tựa con chuồn chuồn trên
mặt ao không bao giờ chịu rời hẳn bông hoa muống sau mỗi cái giật mình cất cánh
bay đi.
Tôi
đứng ngắm ông Cửu Thầy, và như bị cái dáng điệu, cái cử chỉ lạ lùng thôi miên,
mắt tôi đưa từ đôi kính đen bóng, từ hàng răng đen láy, đến điếu thuốc lá với
sợi khói xanh, từ từ xoáy trôn ốc cất lên.
Và
tôi lấy làm thán phục ông ta, vì thấy ông ta không sờ soạng tìm như mọi người
mù, nhưng rất tự nhiên cầm điếu thuốc đưa lên môi, như một người hoàn toàn có
đủ ngũ quan. Nào phải ông ta lờ mờ trông thấy ngoại vật cho cam! Ông ta mù tịt,
mù một trăm phần trăm. Mà điều ấy chính tôi đã nhận thấy rõ ràng, một hôm tôi
đứng nhìn ông ta tháo kính uốn nắn lại đôi gọng đồng: hai con mắt ông ta cùng
không có con ngươi và lõm hẳn vào, hai mép mi như khâu liền lại nhau. Người nhà
tôi còn nói một lần đến cúng kỵ, vì thằng con ông ta bỏ chạy chơi không dẫn lối
cho ông ta, ông ta đã lễ bốn lễ sang phía bên cạnh bàn thờ. Nhưng điều này tôi
quyết không thể có, chẳng qua người ta chỉ bịa đặt ra để giảm giá ông Cửu Thầy,
vì tôi tin chắc rằng ông ấy không làm sai lầm một việc gì, không đi sai lạc một
con đường nào: con mắt tinh thần của ông còn sáng suốt hơn con mắt thịt của
chúng ta nhiều.
Cái
tài đoán trông mọi việc của ông, bọn người sống chung quanh tôi thường thêm
thắt truyền tụng, đến nỗi đã in sâu vào khối óc thơ ấu của tôi cái ảo thuật lạ
lùng của ông thầy bói lạ lùng ấy. Vì ông Cửu Thầy chính là một ông thầy bói,
một ông thầy bói cao quý của quan trường. Thiên tiểu sử của ông mà người ta
thuật đi thuật lại bằng một giọng bí mật càng làm tôn giá trị ông lên và đã
khiến tôi đặt ông ngang hàng với những nhân vật kỳ dị trong những truyện Chinh
đông, Chinh tây, hay Đông Chu liệt quốc mà ông thường kể cho anh em chúng tôi
nghe bên khay đèn thuốc phiện sáng bóng.
Ông
mù năm mười tám tuổi, sau một khoa thi mà ông không may bị loại ở kỳ phúc hạch.
Từ đó ông đi chu du thiên hạ để đoán việc dở, hay cho người đời. Một hôm, ông
đến chơi một ông tổng đốc lĩnh chức khâm sai đi dẹp loạn Đốc Tít, giữa lúc ông
tổng đốc sắp sửa cất quân lên đường. Ông gieo một quẻ, đoán sẽ xảy ra sự bất
trắc và quan quân sẽ mất đầu chết ở một quãng đồi Tây. Ông tổng đốc lo lắng,
rụt rè không dám vội tiến binh, liền cho một đoàn thám tử mười người, cưỡi ngựa
phi qua đồi Tây để xét tình hình hư thực. Quả nhiên bọn thám tử đều bị câu liêm
bên địch dựt mất thủ cấp. Được tin, ông tổng đốc thở ra khoan khoái: ngài vừa
thoát cái nạn làm con ma không đầu. Tức thì ông thầy được ngài ban cho hàm cửu
phẩm và từ đó ông đã nghiễm nhiên có cái tên, ông "Cửu Thầy".
Một
lần nữa - mà lần này chính tôi được mục kích - giữa một trận bão dữ dội, một
trận bão đổ cửa đổ nhà, nhổ bật cây, uốn cong cột giây thép, ông đã dám một
mình nằm ngủ một giấc ngon lành trong gian nhà học mảnh yếu của chúng tôi. Thấy
cụ cử và anh em chúng tôi rời đi nơi khác, ông chỉ mỉm cười nói một câu bí mật:
"Không hề gì đâu!" Quả không hề gì thật. Gian nhà học chênh vênh trên
nền cao vẫn đứng vững sau trận bão.
*
Tôi
tò mò đứng ngắm cái mặt bình tĩnh như mặt hồ phẳng lặng, ngắm hai ngón tay diễm
ảo rón rén cầm điếu thuốc lá nhẹ nhàng như hai ngón tay thiếu nữ cầm sợi chỉ xỏ
trúng ngay cái lỗ trôn kim, và trí tôi âm thầm ôn lại những chuyện trên kia.
Bỗng
nẩy ra trong óc tôi một ý kiến ngộ nghĩnh: tôi muốn giấu điếu thuốc lá đi xem
ông Cửu Thầy có đoán biết không, hay vẫn cứ rón rén hai ngón tay để cầm một vật
đã mất. Tôi mon men lại đứng sát bên giường, mắt dán vào điếu thuốc. Và tôi thò
tay ra rồi lại rụt tay về, lòng phân vân, sợ hãi. Như có tiếng thì thào xui
giục tôi: "Cứ thử xem nào!..." Nhưng tôi vẫn không dám liều.
Một
lần tôi đã quả quyết, mạnh bạo đưa bàn tay ra. Nhưng, như đoán rõ ý tôi hai
ngón tay ông Cửu Thầy đã tới đích trước, khiến tôi càng kinh ngạc...
Về
sau, tôi cũng làm nổi cái việc dự định của tôi, cái việc nó ám ảnh tôi một cách
mãnh liệt. Mà làm nổi là nhờ về một cuộc cãi lộn của hai kỳ thủ: Lúc ấy anh tôi
khẽ nói với bên địch nước cờ vừa đi của mình. Tức thì, không ngần ngừ, hai ngón
tay ông Cửu Thầy rón rén hạ xuống bàn cờ, như cái mỏ con gà mái thong thả hé
ra, nghiêng nghiêng hạ xuống đất để đớp một cái mồi chắc chắn và béo bổ. Nhưng
cái kìm tay cặp không khí. Tôi cho là ông thầy lầm chỗ và mỉm cười nhìn ông:
cái mỉm cười bí mật của ông đáp lại liền. Còn đáp lại anh tôi thì ông thầy chỉ
dùng lời nói:
-
Thôi, xin hòa, vì con ngựa của tôi đã bị người ta... bắt trộm mất rồi, tôi còn
đánh chác làm sao!
Anh
tôi cãi lại:
- Ông
nói lạ! Có phải ông ngờ tôi giấu quân mã của ông không?
-
Không, cậu không giấu, cậu chỉ nhặt để ra giường thôi. Kia kìa, quân mã của tôi
kia kìa!
Vừa
nói, ông Cửu Thầy vừa giơ tay trỏ vào chỗ những quân cờ mà anh tôi đã chặt
được, y như một người sáng mắt vậy. Lòng kính phục của tôi đối với ông thầy bói
đã lên đến cực điểm. Và tôi càng quả quyết thi hành việc dự định của tôi. Nhân
ông không lưu ý tới, vì đương tức tối với anh tôi, tôi cầm ngay điếu thuốc lá
giấu đằng sau lưng. Liền lúc ấy hai ngón tay của ông lò cò rón rén hạ xuống bàn
cờ. Tôi sợ hãi luống cuống, vội vàng lại đặt điếu thuốc vào chỗ cũ. Tôi vội
vàng quá nên đặt ngược, đầu có lửa cháy quay vào phía trong.
Chừng
mải cãi lý với anh tôi, ông Cửu Thầy không kịp đoán biết điều bất trắc, biến cố
thình lình ấy. Nghiễm nhiên, không ngờ vực, ông cầm thuốc hút. Bỗng ông giật
mình đánh rơi điếu thuốc xuống đất: ông vừa đưa đầu có lửa vào môi.
Nhưng
cái mỉm cười của ông không vì thế, cũng như không vì việc mất trộm ngựa, mà héo
rụng. Nó vẫn nở tươi như đóa hoa hàm tiếu ở trên cặp môi ông, tuy cặp môi ấy
chắc chắn đã bị bỏng, vì tôi thấy thỉnh thoảng ông lại thè lưỡi ra yên lặng lia
quanh một vòng.
Rồi
trong khi anh tôi chịu thua bày lại quân cờ để đánh ván khác, ông thản nhiên
móc túi lấy gói thuốc lá, đánh diêm châm một điếu khác mà vẫn như trước, mỗi
lần kéo xong một hơi, ông đặt xuống thành bàn cờ, y nguyên chỗ cũ. Có điều ông
cẩn thận hơn, trước khi hút, ông đưa ngón tay ra sờ qua xem đầu nào nóng.
*
Từ
hôm ấy, luôn luôn ông Cửu Thầy nhìn tôi mỉm cười, cái mỉm cười lặng lẽ, bí mật,
ghê sợ nữa. Tôi cố nhớ đến cái mù của ông mà cho rằng ông không nhìn tôi, không
mỉm cười với tôi. Nhưng không sao được, tôi vẫn nhận thấy rõ rệt hai cái mắt
kính đăm đăm thu lấy hình tôi. Hơn thế, cái nhìn đen còn theo đuổi tôi cả những
lúc tôi đứng một mình, cả trong những giấc chiêm bao của tôi. Tôi yên trí chắc
chắn rằng thế nào rồi ông Cửu Thầy cũng trả thù tôi một cách đích đáng. Mà một
ông thầy bói cao tay lại lắm mưu nhiều kế như ông ta đã định trả thù ai thì
thực chẳng biết đâu mà coi chừng, mà tránh thoát được.
Vì
thế, tôi lo lắng, ăn mất ngon, ngủ mất yên, mong cho chóng tới ngày ông từ biệt
nhà tôi để cùng thằng con cắp tráp theo hầu đi chu du thiên hạ. Nhưng, hình như
không bao giờ ông ta đi, hay ngỏ ý muốn đi. Hay ông định ở lại cho kỳ báo được
thù?
Tôi
càng sợ hãi khi thấy ông ta phô diễn sự trả thù thằng con một cách quỷ quyệt lạ
lùng. Ông ta mỉm cười gọi:
- Con
ơi!
Rồi
rất ngọt ngào:
- Con
lại đây thầy bảo thầm điều này.
Thằng
con vì biết mình có lỗi, rụt rè chưa dám vâng lời ngay. Nhưng về sau như bị đôi
kính đen của cha thôi miên, nó mon men lại gần... lại gần... Ông Cửu Thầy vẫn
mỉm cười, đợi. Bỗng nhanh như con bói cá chộp mồi, bàn tay trái ông bổ xuống
nắm lấy cái chỏm tóc rối trong khi bàn tay phải tát luôn một chập đến gần chục
cái rất mạnh rất kêu trên hai má thằng con khốn nạn...
Đoạn
đâu lại hoàn đấy. Nụ cười tươi, bí mật, đôi kính đen vẫn lãnh đạm nhìn thẳng
vào mắt tôi.
Tôi không
ngờ vực gì nữa. Những cái tát kia là cốt để bảo cho tôi biết trước rằng sự trả
thù của ông thầy bói sẽ ghê gớm đến bực nào...
Nhưng
sáng hôm sau ông Cửu Thầy từ biệt ra đi.
*
Ngày
nay thỉnh thoảng đãng trí cầm ngược điếu thuốc đưa gần môi, tôi lại nhớ tới câu
chuyện thời còn nhỏ, và tôi mơ màng như nhìn thấy đôi kính đen và cái miệng
cười say, sợi khói xanh từ từ xoáy trôn ốc cất lên.
Khái
Hưng
Rút
từ tập truyện ngắn Đợi chờ
Nxb
Đời nay, Hà nội, 1940.
No comments:
Post a Comment