Kiệm Trúc
Chuyện mượn một số địa
danh thật, tình tiết, bối cảnh và nhân vật được viết bằng tưởng tượng, xin thứ
lỗi cho những trùng hợp vô tình nếu có.
1.
Ngân bỏ túi xách bằng vải dầy, không nặng lắm, trong
đựng vài ba bộ quần áo, đồ dùng cá nhân
lặt vặt và mấy túi gạo xấy, khẩu phần cho lính ăn, xuống đất, mùi lá rừng khô mục, ướt đẩm sương
đêm xông lên, không át nổi mùi hơi người của đoàn người dân, hơn mấy ngàn, già
trẻ bé lớn, đứng ngồi chật cứng trên đường, gánh gồng dắt díu nhau, theo quân
VNCH, sau mấy ngày đêm cầm cự, bỏ chạy về Xuân Lộc, sau khi quân cộng sản chiếm
ngã ba Dầu Giây trên quốc lộ 1 và chặng ngang tỉnh lộ 20, đoạn cuối từ Trúc Tân
tới quận Kiệm Tân, vào giữa tháng tư, trời bỏ xuân vào đầu hạ, chưa đủ nóng, để
bớt chút lạnh giữa đêm, trăng lờ mờ nhấp nhô sáng trên cao, lập lòe chút lửa nhỏ,
đủ nhìn thấy không đếm hết, của điếu thuốc còn sót lại, trên gương mặt, khô cứng,
mệt mỏi, chán chường của những người lính VNCH còn lại, lẳng lặng, lầm lũi bước
từng bước nặng nề, súng đủ loại nghe vang vọng đuổi theo sau, thỉnh thoảng, có
tiếng con nít khóc và tiếng người xì xào gọi tìm nhau đâu đó. Ngân ngồi bệt xuống,
bên đường, bàn chân bên phải đau quá, làm như có gai nhọn hay cái gì đó, đâm
vào, không tiếp tục đi xa hơn nữa, dù đã cố gắng, trong tâm trạng sợ bị kẹt lại
xa phía sau, cổi chiếc giày Bata bên chân phải, tháo vớ, hai ba viên đá nhỏ cở
đầu ngọn viết chì rớt ra ngoài, mang giày vào, đứng dậy, đoàn người phía trước
đã bỏ đi khá xa môt khoảng đường, lưa thưa phía sau, lác đác từng năm ba nhóm,
mù mờ động đậy, quân lính VNCH lẩn khuất dần đâu đó, sâu phía hai bên rừng, con
đường tiếp tục dài như cái dài hun hút của mấy ngày đêm qua, rồi thì trời cũng
nhá nhem về sáng.
Ngân quàng túi xách
lên, mệt nhọc đứng dậy đi, ở một phía bên kia đường, trong màn sương đêm đục mờ
chưa kịp tan, súng vẫn còn nổ từng chập, khi nhặt khi thưa, xa xa sau lưng, hình
như có bóng ai, cạnh một hố đất lớn ven lề đường, đám người phía trước đã đi khuất
từ lâu, tò mò, tới gần một chút, có tiếng gọi “má má”đứt quảng, nghe rõ hơn, Ngân giựt thốt mình, kinh ngạc, thằng
bé khoảng chừng hai tuổi, gầy ốm, mặc cái áo thung rách màu cháo lòng và cái quần
xà lỏn, bạc màu đen, ống cao ống thấp, nước mắt ràng rụa, bơ phờ ngơ ngác, lạnh
run, đứng khóc sướt mướt một mình, anh cố đảo mắt nhìn quanh, không còn một ai ở
đây, đám người phía sau chưa lên tới, buột miệng “trời ơi, con của ai lạc bỏ ở đây”, Ngân đến gần thằng bé, kéo cái
áo thung lính màu ô liêu trong túi xách ra, ngồi xuống, choàng cái áo quanh thân
nó, ôm chặt vào người anh, tay xoa đầu ướt đẩm sương, vỗ về, tay kia lau nước mắt
trên mặt, thằng bé nhìn anh đờ đẩn mất hồn, tiếp tục sụt sùi khóc.
Ngân kéo thằng bé ngồi xuống đất, hỏi tên gì,
nó lặng thinh cứ khóc, đở thằng bé ngồi trong lòng chờ, trên đường đã có chút nắng
sáng, cũng khá lâu, đám người từ xa lên tới, đi ngang qua, anh hỏi thăm, ai nấy
lắc đầu, không ai biết gì, tiếp tục đi, người đàn bà quảy đôi gánh, nặng trĩu,
lỉnh ca lỉnh kỉnh đồ đạc gì đó, có ba bốn đứa con, trai gái, chín mười tuổi
theo, dừng lại, bỏ gánh xuống, đưa cho Ngân gói lá chuối khô, đựng ba bốn nắm
cơm vắt nguội, chỉ thằng bé, chị làm dấu bảo cầm lấy, rồi gật đầu chào bỏ đi, mấy
đứa nhỏ hấp tấp theo sau, xa rồi mà thỉnh thoảng vẫn còn quay đầu nhìn lại, anh
nói vọng theo cám ơn, thằng bé nín khóc từ lâu, Ngân đưa nắm cơm vắt cho nó, dắt
nhau đi tiếp, thằng bé nắm chặt tay anh, tay kia cầm cứng ăn ngon lành. Chiều tối,
rừng người di tản khựng lại, khi sắp tới xóm đạo Bảo Bình, vì bị đạn pháo của
quân cộng sản bắn quá, không ai dám đi tiếp, nên Ngân cũng bắt kịp họ không lâu
sau, anh bỏ thằng bé trên vai xuống, nó ngủ yên từ lúc nào rồi, cũng như những
lần trước, cũng tiếng gọi nhau, cũng tiếng thở dài rã rời khắp chỗ, bụng đói, mở bịch gạo xấy còn hơn phân nửa, trút vào
lòng bàn tay, nhai chầm chậm, nhìn thằng bé, nhớ lại tiếng “ba” mà nó gọi anh trên đường đi, Ngân mĩm cười nói thầm, “ngủ đi con, thằng Kiệm Trúc”, cái tên mà anh định sẽ đặt cho nó,
trong đầu mình, ghép hai địa danh Trúc
Tân và Kiệm Tân, nơi anh gặp nó bị lạc, ba nắm cơm vắt còn lại vẫn nẳm yên
trong túi xách, lạnh cứng, Đến giữa đêm,
đoàn người di tản hàng ngàn, mới tới được quốc lộ 1, nhập chung với giáo dân của
mấy xóm đạo Bảo Bình, Bảo Toàn và Bảo Hòa, họ vốn đã tập trung, gánh gồng, lớn
bé trước đó, ở hai bên đường, theo quân
lính VNCH rút lui xuôi Nam, quân cộng sản phục kích tấn công ở ấp Suối Cá, rồi
thung lũng Giá Rai, dọc theo chân núi Cam Tiên, hai bên đụng nhau dữ dội, quân
VNCH bị thiệt hại khá nặng nhưng cuối cùng cũng mở đường qua được.
Chị bảy Tựu, mở cửa,
không bước ra, trố mắt nhìn trân trân, ngạc nhiên, thằng bé Kiệm Trúc đứng lấm
lét thụt thò sau lưng, ôm cứng chân Ngân, anh bồng nó lên tay, đi vào nhà, chị
bảy Tựu không hỏi gì, lặng lẽ theo sau, Ngân quay lại, nói vừa đủ nghe “chuyện dài, chút nữa em kể cho chị nghe”,
tin Long Khánh mất, tin đất nước rối bời, người đi người ở, đường phố Sài Gòn hổn
độn, không khí ngột ngạt, đông nghẹt hơn trước, cộng thêm cái nắng đầu hè, trời
đất hình như cũng khác đi, lạnh lùng nắng mưa bất chợt, cả hơn một tháng nay, từ
ngày quân đội VNCH quyết định bỏ vùng 1 vùng 2, chị cứ ngóng tới ngóng lui, lo
cho mình ít mà lo cho thằng em nhiều, không biết nó ra sao, lo thì lo vậy nhưng
lại không làm được gì khác hơn, thấy Ngân về, chị mừng rơi nước mắt nhưng sự có
mặt của thằng bé làm chị cũng khá thắc mắc trong lòng “chẳng lẽ”. Trời cũng đã lấp xấp chiều, nắng Sài Gòn chợt dịu xuống,
giống như câu hát trong bản nhạc quen nào đó “nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát..”, để thằng nhỏ lẩn quẩn quanh
mình, Ngân dọn dẹp sơ trong phòng rồi dẫn nó đi tắm, chị bảy Tựu, chạy xẹt
nhanh qua nhà anh chị thợ may bên kia đường, có đứa con trai cũng trạc tuổi thằng
bé Kiệm Trúc, xin đở bộ quần áo cũ về, đưa Ngân cho nó mặc tạm, rồi quày quả lo
nấu cơm, Ngân kể lại chuyện anh và thằng bé trên đường di tản và ở đâu nó có
cái tên Kiệm Trúc, chị bảy lắng nghe, nhìn thằng bé ăn múc cơm ăn, hột ngoài hột
trong, ngậm ngùi thương xót, đêm đó chị đem nó vào phòng ngủ chung với mình, có
tiếng chị ầu ơ “ví dầu cầu ván đóng đinh,
cầu tre lắc lẽo ..” nghe rõ mồn một cho tới giữa khuya. Nhờ ông bác, ba của thằng bạn cùng học năm sư phạm, còn làm xã trưởng
Tân Sơn Hòa, Ngân xin cho thằng bé Kiệm Trúc cái giấy thế vì khai sanh, với tên
“Nguyễn Kiệm Trúc”, ngày sinh “ngày 17 tháng 4 năm 1972”, ngày anh gặp
thằng bé, nơi sinh “Tân Sơn Hòa, Gia Định”
và thêm tên nó vào tờ khai gia đình.
Ba Ngân mất không
lâu thì mẹ cũng theo ông mà đi, bà con đem chôn tại khu gò mả trống của gia
đình bên ngoại, sau ngày giỗ năm đầu, ngoại cũng già yếu rồi, hai chị em dắt
dìu nhau từ Thủ Thừa về ở trên Sài Gòn, căn nhà nhỏ này, trong cái hẽm sâu mang
tên Nghĩa Phát, nối ngã ba đường Nguyễn Văn Thoại không mấy xa, không trải nhựa,
đá đất lõm chõm, chạy thông qua tới bên kia chợ lăng Cha Cả, mà ông bà mua được
khi còn sống, đi về làm ăn buôn bán, chị bảy tiếp tục bương chảy nuôi em từ những
năm lên đệ thất đệ lục ở trường Mạc Đỉnh Chi, chị và Ngân không phải cùng cha mẹ
nhưng thương nhau còn hơn ruột thịt, chị là con nuôi, không biết chị về ở với
ba mẹ khi nào, nhưng khi sinh Ngân ra thì chị đã có ở đó rồi, nghe kể lại, năm
1945, 46 gì đó, ba mẹ nhận chị làm con nuôi từ một người miền Bắc, làm phu cạo
mủ cao su ở Hớn Quản, vì người này nghèo và bệnh lao phổi nặng quá, không nuôi
nổi và cũng không còn sống bao lâu và thật vậy, ông chết chừng năm sau đó, chôn
cùng mấy người phu cạo mủ, chết trước, không thân nhân họ hàng khác tại cái
nghĩa địa khô cằn đất đỏ ven bìa rừng cao su ở Bà Rá, sau đó, ba mẹ Ngân được sự
giúp đở của người bạn làm giám đốc khu đồn điền, hốt hài cốt đem về chôn ở Thủ
Thừa. Tội nghiệp, chị bảy người thấp lùn, không nhan sắc, xấu hơn mấy cô gái
khác trong làng nên chị thường lầm lũi một mình trong nhà, ít khi ra ngoài trừ
khi phải theo mẹ đi chợ sáng, hay mua cái gì đó, chị lớn rồi, nên chỉ đi học
trường làng vài năm rồi thôi, ba mẹ thấy vậy cũng không ép thúc làm gì. Lớn lên
một chút, chị phải lòng một anh trai trên xóm trên, có tật chân đi khập khễnh,
gia đình cũng tàm tạm, nhưng không may, anh chết vì bị trúng mìn của quân du
kích cộng sản cài trên bờ đường đất cuối ấp, chận lính nghĩa quân của xã mở đường
mỗi sáng, nên chuyện tình bất thành, chị buồn nhiều tháng nhưng rồi cũng nguôi
ngoai, không ai ngờ, chị lại nhất định không lấy chồng từ đó và ở vậy cho tới nay,
giờ đã gần bốn mươi, chị thường hay đọc kinh niệm Phật, bàn thờ ba mẹ lúc nào
cũng đầy đủ hoa quả mâm đèn, giỗ quảy thì hai chị em đón xe đò dắt nhau về dưới
ngoại đôi ba ngày.
Miền Nam mất, hàng
trăm ngàn quân nhân công chức VNCH bị lùa tập trung vào các trại tù cải tạo của
nhà cầm quyền cộng sản, đi không biết khi nào về, Ngân không trở lên Định Quán,
chẳng thấy thiết tha gì cái chức hiệu trưởng trường tiểu học Suối Nho, vì trong
đầu đang tính chuyện vượt biên, chuyện mà lúc bấy giờ, người ta, từ thường dân
tới công an, cán bộ, xóm ấp phường khóm nói tới hà rầm, từ bến xe, quán xá cho
tới đường lớn hẽm cụt, nhà tranh nhà ngói. Chị bảy Tựu hùn hạp với một người bạn
gái quen ở phường Cây Sung, Bình Đông, nhanh nhẩu mở một hai cái sạp bán quần
áo ngay chợ An Đông, chợ Vườn Chuối, sau ngày đổi tiền đợt đầu, công việc bán
buôn xem ra khấm khá, đa số khách hàng đều là bộ đội hay dân miền bắc vô, chuyện
trong này chuyện ngoài đó cứ mặc tình trả giá mắc rẽ. Thằng bé Kiệm Trúc giờ
thì đeo cứng theo chị, “một má bảy hai má
bảy”, nó dễ dạy, mặt mài trông cũng lịch sự, ít nhõng nhẽo, bảo đâu ngồi
đó, cười luôn miệng, chị bảy thương nó còn hơn con, đôi khi nhìn nó ngủ, chị
bùi ngùi, xót xa nhớ hoàn cảnh mình cũng không khác gì, không ai hiểu nổi buồn thiếu cha thiếu mẹ của
nó như chị, nhiều khi thấy nó khóc bâng quơ, chị buột miệng thở dài “tội nghiệp”. Sau mấy tháng im hơi lặng
tiếng, Ngân nhập vào đám buôn bán chợ trời, từ Lăng Cha Cả, ngã tư Bảy Hiền, chợ
Kim Biên, ra tới đường Hàm Nghi, Lê Thánh Tôn, đủ mọi thứ, đồng hồ, ra dô, thuốc
tây, thuốc lá, bị công an bắt nhiều lần, nhưng nhờ có đường dây “móc ngoặc” nên “điềm nhiên tự tại” rủng rỉnh xu hào, đủ cơm đủ cháo.
Ngân gặp lại Liên,
cô bạn học cùng lớp ở năm cuối trung học, chưa kịp tốt nghiệp Dược thì quân cộng
sản vào, vì có ông già là sĩ quan cấp tá, hình như là Trung đoàn trưởng nào đó
của sư đoàn 7 VNCH ở miền Tây, đang ngồi tù, lý lịch xấu, con nhà “Ngụy”, thường xuyên bị “họp đoàn, kiểm điểm tự phê”, chịu không
nổi, nhịn cũng không quen nên bỏ trường, nhảy vào làm nghề buôn bán thuốc tây từ
ngày thôi học, lanh lợi không thua ai, hôm đi tìm số thuốc bán cho vài mối quen
cần mua, từ Bình Dương xuống kiếm, trên chợ trời đường Kỳ Đồng, cô nàng cho biết
có quen một đường dây dưa người vượt biên rất uy tín, đã trót lọt nhiều chuyến
và hiện vẫn còn tiếp tục, chính Liên cũng đã có nhiều lần giới thiệu khách cho
họ, có thù lao chút đỉnh, đi ngay tại Sài Gòn, không cần phải “giả dạng thường dân”, trốn tránh đi xa tận
Cà Mau Rạch Giá hay ngược lên Tuy Hòa Nha Trang, nếu muốn, Liên sẽ đích thân
đưa Ngân tới gặp, riêng mình thì đã có thằng em bạn cô cậu, có chiếc tàu đánh
cá nhỏ ở Vũng Tàu, đang sắp xếp, chờ ngày giờ thuận tiện, đem cả gia đình ra đi,
nếu không, chắc cũng đã theo đường dây này từ lâu rồi.
Về nhà, hai chị em
bàn qua bàn lại, tính tới tính lui, cuối cùng chị bảy Tựu quyết định ở lại, mặc
cho Ngân nói sao thì nói, chị ở lại, còn giữ được căn nhà, nếu rũi ro, không đi
lọt thì còn có chỗ mà ở, có người lo cho mồ mả ba mẹ và ba ruột của chị dưới Thủ
Thừa, mai mốt ngoại chết rồi, chẳng lẽ bỏ mồ hoang cỏ lạnh sao, chị không làm
như vậy được. Còn thằng bé Kiệm Trúc, chị giờ mến tay mến chân, nửa bước chẳng
rời, chị có ý, muốn để nó ở lại cho chị nuôi nhưng Ngân không chịu, chị buồn hết
mấy ngày. Rồi cũng xong, trước ngày ra đi, hai chị em dẫn thằng bé về Thủ Thừa,
đốt nhang cúng vái mồ mả ba mẹ mình cũng như ba chị bảy Tựu, xin linh thiêng
phù hộ cho Ngân được bình yên vô sự, đi đến nơi đến chốn, ngoại nắm tay Ngân
bùi ngùi “con đi, ráng giữ thân, nhớ về
thăm ngoại”, ôm thằng bé Kiệm Trúc, xoa đầu, vuốt mặt “tội nghiệp cho con quá”, nghe bà nói, ai cũng rươm rướm nước mắt,
thằng bé không biết ất giáp gì, thấy người lớn thúc thít khóc, nó cũng òa khóc
theo.
Đúng như sự sắp xếp
của người tổ chức, trời tờ mờ sáng, sương mù chưa tan hẳn, chị bảy đón xích lô
đạp, đưa hai “cha con” Ngân xuống chỗ
hẹn để lên “tắc xi”, tên gọi của mấy
cái ghe máy nhỏ dùng chở người vượt biên ra tàu lớn, hay là “cá lớn”, bạn hàng bán buôn, rộn rịp,
lên xuống hàng hóa, ồn ào, gọi nhau ơi ới, hai bên bờ, đầu cầu chữ Y, người lái
ghe đứng chờ, thúc hối xuống mau để ra sông cho kịp mấy cái khác, sợ gặp trục
trặc, Ngân bồng thằng bé Kiệm Trúc lên, theo sau, quay lại nhìn mà không dám
nói gì hết, vì sợ người khác nghe, thằng bé ngoáy đầu, lầm thầm “má bảy má bảy”, chị đứng chết cứng nhìn
theo, bóng Ngân khuất ở dưới chân cầu lâu rồi, chị ôm mặt khóc ròng, dưới trụ
đèn đường, chút ánh sáng muộn, còn lại đâu đó chiếu ngang, mặt chị một màu vàng
vỏ, hai ba người bộ đội đẩy xe đạp xuống chợ, tìm mua gì đó, đi qua ngang, thắc
mắc nhìn, nắng bắt đầu rựng lên, chị bảy mắt ngó hướng dưới sông, mong thấy được
chiếc ghe chở Ngân đi, nước sắp lớn, mặt trời rựng lên đỏ rực phía bên kia bờ,
không thấy gì khác hơn, ngoài mấy mảng lục bình lờ đờ xuống lên theo chiều sóng
nước, chị vẫn chưa chịu bỏ đi.
Ra khơi, trời xem
ra êm, đôi khi cũng có mấy trận mưa nhưng gió không mấy lớn, chòng chành lên xuống
theo sóng biển, cao quá đầu người, chiếc tàu nhỏ, khá cũ, nước sơn tróc vài mảng,
chở không hơn bảy tám gia đình, lớn nhỏ, chỉ có Ngân, độc thân và thằng bé Kiệm
Trúc là đứa nhỏ nhất, cũng lặng lờ lướt sóng, tiếng máy nổ êm êm buồn ngủ, hơn
hai ngày đêm nằm trốn dưới khoang hầm chật cứng, xếp lớp như cá, được lên sàn
trên, người đứng người ngồi, hứng chút nắng ban mai, nhưng chung quanh chỉ có
trời và nước một màu xanh đen thẳm, ai nấy làm quen nhau, hỏi thăm tên tuổi,
quê làng, ai đi ai ở, cầu khấn ông bà phù hộ cho chiếc tàu “xuôi
chèo mát mái, nạn khỏi tai qua”, ai nấy cũng hỏi mình tới đâu rồi, người
tài công, khoảng tuổi Ngân, da sạm đen, màu muối và nắng của mấy người chuyên
làm nghề đánh cá biển, cười xuề xòa, “yên
tâm đi, mình qua ngang vịnh Thái Lan rồi, nếu không có gì, sẽ vào tới bờ của Mã
Lai nay mai”.
Trời chợt nổi giông
to, gió rít và hú lên từng chập nghe ghê rợn, mây đen xuống thấp, che kín cả một
vùng, mưa trút như thác, rớt đồm độp trên sàn tàu, không kịp che kịp tát, nước
tràn xuống cả khoang hầm, một chập khá lâu, rồi lâm râm từng đợt nhẹ, lất phất,
lờ mờ phía trước, từ đàng xa, chiếc tàu khá lớn, gấp bốn năm lần tàu của Ngân,
lừ đừ tiến lại gần, lưới cá chất từng đống lớn trên sàn, có cắm lá cờ Thái Lan trên
nóc phòng lái, lố nhố người làm dấu bảo chậm lại, cho tới khi đến gần, họ cho
tàu chạy vòng quanh, người nào người nấy trông có vẻ bậm trợn, đen đúa, rảo mắt
nhìn đăm đăm chăm chú, không nói gì, liệng qua vài chục hộp cá và bánh kẹo rồi
quay tàu ra xa bỏ đi, cũng như những người trên tàu khác, Ngân ôm thằng bé Kiệm
Trúc nhìn theo, hồi hộp và lo lắng cái gì đó nhưng rồi, hình như cảm thấy đói,
Ngân mở cái hộp, lớn cở bằng hơn nửa bàn tay, mà mọi người chia đều sau khi
cùng nhau lượm chung lại, tay lấy ra từng miếng cá mòi đút cho thằng bé ăn, anh
bốc một chút nhỏ bỏ vào miệng ngậm, phần của mình, nó nhìn anh cười, mặt trời
sáng rực lên giữa biển, nắng xuyên qua sương lóng lánh màu ngủ sắc, chiếc tàu lại
cố đi lên, bóng người đứng thẳng, có lẽ đã hơn giữa trưa.
Chưa kịp hoàn hồn hẳn,
chiếc tàu đánh cá khi nãy, quay trở lại, lần này họ cặp sát vào hông tàu Ngân,
năm sáu người lực lưỡng nhảy qua, mã tấu và súng M16 cằm tay, lầm lì, giơ lên
giơ xuống hăm dọa, ra dấu mọi người ngồi yên xuống sàn tàu, một tên đứng canh,
đám còn lại, sau khi xuống khoang hầm lục lạo tìm kiếm trở lên, nhìn một lượt
chung quanh, nói xí xô xí xào với nhau
gì đó, tên chỉ huy làm dấu lần nữa, bảo mọi người lấy bất cứ cái gì có trong
túi áo túi quần ra, chỉ là mấy hộp cá và kẹo ngọt mà bọn này đã cho trước đây,
không tìm được gì hơn, họ nhảy ngược qua, cho tàu nổ máy lớn, khói bốc lên đen
kịch, chạy vòng ra xa một chút, rồi quay lại đâm mạnh vào tàu Ngân, hết phía mủi
tới phía sau, mặc cho người trên sàn tàu hoảng hồn, thất kinh, hét la vô vọng,
bọn đánh cá Thái Lan để tàu đứng yên nhìn, chiếc tàu của Ngân nứt ra, bể làm
nhiều khúc, anh tài công, nhiều người trong đó có Ngân, dù đã nắm chặt tay thằng
bé Kiệm Trúc, nhưng cũng bị hất văng xuống biển, anh tài công ráng lôi hết những
thùng nhựa đựng nước uống, đựng dầu máy trống, quăng xuống làm phao, đứng trên
phần cao trần phòng lái, la lớn, chiếc tàu nhỏ từ từ chìm, bọn đánh cá Thái
Lan, lúc bấy giờ mới quay ngược hướng, bỏ đi. Người Ngân run lên từng chập, chết
điếng, vừa lạnh vừa lo sợ cho thằng bé, vì nó không còn trong tay anh nữa, cố
ngóc đầu cao khỏi mặt những con sóng lớn, trắng xóa màu sương, nhấp nhô giữa biển,
đám người bị văng xuống, quanh đó, xa có gần có, không biết sẽ ra sao, ôm cứng
cái thùng nhựa, giương mắt nhìn trên mặt nước, từ khoảng xa, Ngân hớt hãi bơi
nhanh lên, xác thằng bé Kiệm Trúc trôi dật dờ trên đầu ngọn sóng xô chiều về hướng
mình, Ngân ôm lấy, sụt sùi, nức nở khóc thành tiếng “trời ơi con tôi”, người nó tím bầm, ướt sủng, mắt nhắm nghiền và
đã không còn nữa nụ cười thơ ngây quen thuộc, Nhân đặt xác nó tựa lên thùng nhựa,
nghẹn ngào vịn tay, bất động, mặc cho sóng đưa sóng đẩy, ở phía sau, chiếc tàu
đã chìm gần hơn phân nửa, không thấy bóng dáng ai trên đó.
Mặt trời đã nghiêng
về hướng nào đó, lâu rồi, trôi bềnh bồng giữa biển nước mênh mông, không ai biết
đông tây hay nam bắc, Ngân mệt đừ, thiếp đi một lúc, tỉnh dậy, xác thằng bé hâm
hấp ấm nhờ chút nắng sắp ngã chiều, bất chợt nhìn quanh, có chấm đen nho nhỏ nhấp
nhô lên xuống, ở phía mặt trời, lớn dần, không lâu, hiện rõ mặt, một chiếc tàu
đánh cá Thái Lan lớn lừ lừ tới, chậm lại rồi dừng hẳn, nằm yên, một số người
cùng chuyến tàu chết, không biết trôi giạt phương nào, số còn lại còn thoi thóp
trên biển trong mấy giờ qua, trong đó có Ngân, may mắn, được tới cứu, vớt lên, chiều
chập choạng tối, chiếc tàu về tới bến cảng phía nam Nakhon Si Thammarat, họ
giao cho đồn cảnh sát ở đây, đếm lại chừng hơn mươi người sống sót, không kể
xác thằng bé Kiệm Trúc. Chừng hơn nửa tháng sau, Ngân mang theo cái hộp thiếc
nhỏ đủ màu, trong đó đựng tro cốt còn lại của thằng bé Kiệm Trúc, sau khi được
sự giúp đở của mấy ông bà lớn tuổi địa phương, đem hỏa thiêu tại một ngôi chùa,
có đủ kinh kệ và lễ cầu siêu theo tập tục người Thái, hôm cả nhóm lên chuyến xe
buýt đưa về trại tỵ nạn ở Vọng Các, cúi đầu chào đám dân làng tiễn đưa, cám ơn
bẳng tiếng Thái.
2.
Ở bên này cuối thu, buổi chiều, thiếu nắng, từ
trên lầu, nhìn xuống, trời vàng úa theo màu lá khô chết úa vàng, rụng ngập cả một
khoảng công viên rộng, chạy quanh khu chung cư Kensington, chủ nhật, dưới đường
không mấy người đi, vắng và vắng ngắt, chuyến xe lửa về miệt biển, có lẽ đã trễ,
giờ này chưa thấy qua, cái sân ga nhỏ cuối góc phố lặng thinh buồn thiu buồn
thít, Ngân sửa lại cái hủ làm bằng sành màu nâu đậm, đựng tro cốt thằng bé Kiệm
Trúc, ngay một chút trên đầu tủ sách, cạnh góc phòng khách, đốt ba cây nhang
thơm mua từ khu phố Tàu, còn sót lại, cắm vào bình đựng, đặt mấy nắm cơm vắt,
cái món ăn mà thằng bé đã ăn, hôm anh gặp nó trên đường rừng di tản, cạnh bên,
mới đó mà đã tới ngày giỗ một năm, Ngân cúi đầu, chấp tay, bỗng dưng khóc lớn,
nghẹn ngào đứt quảng “thôi con hãy ngủ
yên, như con đã ngủ yên trong tay ba hồi xưa, ba xin lỗi đã mang con theo, ba cầu
xin trời phật độ trì cho con sớm mau về miền cực lạc, ở đó, mai này, ba sẽ hôn
con, cái hôn thương yêu dài bất tận khi ba con mình gặp lại”.
Ở bên nhà, cũng ngày
hôm đó, chị bảy Tựu, cầm cái thư Ngân gởi về, nhận hôm qua, bỏ bán buổi sáng,
đón xe đò đi Thủ Thừa. Ngoại ngồi đồi diện chờ đợi, chị bảy mở thư ra, cả hai
vui mừng không xiết, khi biết Ngân đi được trót lọt, đọc chưa hết nửa trang giấy,
chị bảy bỗng nhiên dừng ngang, bỏ lá thư xuống giường, bật khóc nức nở, ngoại
chưng hửng chưa biết ất giáp gì, cũng chưa kịp hỏi, chị bảy lại khóc lớn hơn,
nước mắt ràng rụa “thằng Kiệm Trúc, thằng
Kiệm Trúc chết giữa biển rồi ngoại ơi”, ngoại cầm lấy tay chị bảy run run “cái gì, trời ơi, thằng nhỏ chết rồi hả”,
lá thư rớt xuống sàn nhà xi măng, vài chữ ươn ướt chút nước mắt nhạt nhòa, hai
bà cháu ôm nhau, ngửa mặt nhìn ra đường, cùng buột miệng hai tiếng “Kiệm Trúc”.
Chiều hôm đó, mắt đỏ
hoe buồn hiu trên chuyến xe về lại Sài Gòn, chị bảy Tựu làm thinh, cứ miên mang
nhớ thằng bé, nhớ gay nhớ gắt, mặc cho tên công an, hỏi han gì đó ở trạm kiểm
soát kinh tế ngay tại ngã ba Bình Chánh, dưới Thủ Thừa, căn nhà vắng tanh, ngoại
ngồi một mình, không buồn lên đèn, ngó ra khúc sông ngang chợ, cũng ngậm ngùi
nhớ, nhớ thằng bé, nhớ gay nhớ gắt không thua gì chị bảy Tựu trên Sài Gòn.
Thuyên Huy
South Port một chiều đứng
nhìn biển, tháng giêng 2016
No comments:
Post a Comment