Tôi
đánh xe trâu chở anh từ ga Xép về làng.
Tháng
năm âm lịch. Cuối vụ gặt. Nước lấp xấp, đồng chiều trơ gốc rạ. Thỉnh thoảng sót
lại một vài đám ruộng nhà ai đó chưa gặt, lúa trĩu bông vàng suộm. Tiếng dế nỉ
non và tiếng chẫu chuộc nhảy tõm xuống nước. Muồm muỗm, cào cào, châu chấu
nhiều vô kể, đậu xúm xít hai bên bờ cỏ, có con xoè áo khoác xanh, áo cánh đỏ
làm dáng. Bước chân trâu đánh động những sinh vật nhỏ nhoi của cánh đồng bay
rào rào lên thành muôn nghìn chấm nhỏ xù xịt trên không trung. Khói xanh ở gò
Mã Giáng ngún thành vệt dài theo chiều gió nam thổi. Bọn trẻ trâu đang vơ rơm
rạ khô, bùi nhùi bỏ thêm vào đống lửa đỏ. Mùi khói rơm mới lẫn mùi cào cào, muồm
muỗm nướng thơm ngầy ngậy. Anh chỉ về phía đó, hỏi:
-Cô
gì ơi! Bọn trẻ làm gì thế?
-Nướng
cào cào.
-Người
nhà quê hay nhỉ!
Anh
cười cười, ngường ngượng. Chẳng biết anh khen hay là chê. Tôi hỏi:
-Anh
chưa nhìn thấy cào cào bao giờ à?
-Chưa!
Cô gì ơi. Cô chở thuê. Ngày nào cũng đánh xe trâu lên ga à?
-Một
tháng đôi ba bận thôi. Tôi phụ thêm cho cha. Sao anh không đi xe ô tô lại ngồi
xe trâu chở hàng của tôi?
-Ô
tô lúc nào đi chả được. ở bên kia tôi có nằm mơ cũng không thấy xe trâu. Lộc
cộc. Thô sơ. Thế mà sướng. Người nhà quê hay nhỉ
Lòng
tôi nhộn nhạo không yên. Anh thật ga lăng. Quần bò, áo thun, trên ngực in hình
con Kănguru. Một mớn tóc xoăn xoã trên trán, mắt rất hoang dã như mắt cừu. Tôi
đã bắt gặp hình ảnh này ở đâu nhỉ? Phải rồi, ở đồng cỏ, đồng cỏ mênh mông nước
Ôxtrâylia trong phim. Nhưng móng tay anh để dài hồng hồng trắng và nước da còn
trắng hơn tôi, trắng hơn nước da con gái làng. Mùi nước hoa đàn ông ngàn ngạt,
lạ lắm! Tôi không quen mùi này nhưng cố hít hít. Bất chợt, tôi nhìn xuống đôi
tay mình: da dày sất sước vì đi gặt lá lúa quất, dằm thóc đâm.
Một
người đàn ông đang cầm sào tre dài, ngọn buộc một mảnh ni lông trắng bay lấp
phấp lội bòm bọp theo sau đàn vịt. Vịt kêu váng một góc đồng chiều, đít vịt
ngỏng vếch lên, mỏ vịt cắm xuống sùng sục kiếm thức ăn. Nước đồng đục ngầu nổi
bong bóng, gốc dạ toẽ ra khi đàn vịt đi qua. Vịt đàn ăn lúa rơi vãi nhiều nhưng
đang độ đẻ rộ con nào con nấy gầy rạc.
Ho…ọ!
Tôi kéo thừng giằng ở mũi con Đen dừng xe lại. Con Đen ngênh nghênh đôi sừng
cánh ná, mắt đỏ đòng đọc nhìn đàn vịt lau chau vượt qua đường sang cánh đồng
bên vừa mới gặt xong. Tiếng vịt kêu: Cạc… Cạc… Cạc… Rồi tiếng trâu rống: ọ… ọ…
ọ.” Anh đứng hẳn người lên, chăm chắm nhìn đàn vịt:
-Cái
ông kia buồn cười nhỉ?
Tôi
bảo:
-Đuổi
vịt. Ông ấy đang đuổi vịt.
-Người
nhà quê hay nhỉ.
-Anh
chưa nhìn thấy vịt bao giờ à?
-Ừ!
Anh chỉ biết cừu và Kănguru thôi. Em có biết Thế vận hội Xít Nây người ta lấy
biểu tượng Kănguru không? Không à! Bao giờ Việt Nam mình là chủ nhà của Uôn Cắp
chẳng hạn. Lúc ấy, nước mình lấy con gì làm biểu tượng? Lấy vịt? Hay cào cào
nhỉ?
Anh
lại cười. Chẳng biết anh nghĩ gì về nhà quê chúng tôi?
Trời
sâm sẩm tối. Xe trâu dừng trước nhà bác Hán. Bác Hán vồn vã:
-Xem
nào. Xem nào. Thằng cháu bác to bằng nào rồi nào. Ôi trời ơi! Cao lớn hơn thằng
bố mày. Có dễ đến hơn mười năm mày chưa về quê ấy nhỉ? Bác cứ lo mày
không biết đường về.
-Cả
cái thành phố Xít Nây mênh mông chỗ nào cháu cũng biết. Huống hồ là cái làng
quê bé tẹo này.
-Thế
mày ngồi xe trâu có thích không?
-Thấy
là lạ. Cháu muốn tìm cảm giác mới. Cứ như ngồi xe chó kéo của thổ dân úc ấy,
bác ạ.
-Chuyến
nghỉ hè này bác sẽ cho mày cưỡi trâu, cưỡi bò, cưỡi dê nữa. Để cho mày hiểu như
thế nào là nơi bố mày với bác đã sinh ra và lớn thành người, thằng cò ạ.
-Cháu
chỉ sợ vài ba hôm, mẹ cháu xót con lại đánh điện về bắt cháu đi.
-Đến
bốn lần giỗ họ, sao bố mày không về?
-Văn
phòng đại diện bên úc có việc gấp; không chờ cháu được, ba mẹ cháu sang trước.
Ba mẹ gửi bưu điện biếu bác hai triệu đồng, bác nhận được chưa?
Bác
Hán bảo:
-Vẽ.
Tao nhà quê ăn tiêu gì mấy. Cái bác cần là tình cảm cơ. Giá bố mày đổi hai
triệu đồng thành mỗi năm hai lần về nhỉ?
Tôi
bỏ nốt túi du lịch xuống cho anh. Cộc… cộc… Con Đen đánh sừng vào ách xe. Sừng
con Đen quệt nhẹ vào hông anh. Anh nhảy dựng lên:
-Chết
tôi rồi!
-Cái
thằng! Thần hồn nát thần tính. Chết làm sao được.
Bác
Hán mắng to rồi dịu giọng dần. Tôi bật cười khúc khích. Anh bẽn lẽn, ngượng
nghịu: “Cái sừng cánh ná khềnh khoàng. Cháu kinh quá.” Tôi chào bác Hán rồi tôi
quất roi tre đét vào mông con Đen đánh xe đi. Anh chạy theo: “ới, cô gì ơi! Tôi
trả tiền cô chở thuê.” Anh ấn vào tay tôi tờ năm mươi ngàn đồng, số tiền này
đong được hơn hai thùng thóc, hoặc một yến cá mè hoa, hay mười gánh rau răm.
Rất
sòng phẳng! Tôi nhận ra ánh mắt của anh, ánh mắt soi vào thân phận làm thuê của
tôi? Không dấu được, làm thuê ở đâu cũng là làm thuê.“Xe trâu nhà tôi chỉ chở
hàng. Ai thích. Cho đi nhờ thôi. Tiền nong gì.” Có cái gì đó chạy dọc cổ tôi
nghẹn tức. Tôi nhét trả tờ năm mươi ngàn đồng vào túi áo ngực anh. Anh ngạc
nhiên, bảo: “Người nhà quê hay nhỉ.”
Tôi
tên là Na, thời bé tôi đi học sớm một năm. Năm nay, tôi mười bảy tuổi. Mười bảy
tuổi đã bao nhiêu đêm tôi mơ được vào đại học như mấy chị ở làng. Vào đại học
thích lắm! Được ra thủ đô học, được bay nhảy ở chân trời xa. Một chị bảo tôi:
“Mày đã biết yêu chưa? Yêu hay lắm mày ạ.” Một chị khác nói: “Mày đẹp. Có khi
con trai các trường khác xúm vào tán. Còn lâu mới học được.” Tôi rất mơ mộng,
hay làm thơ. Người ta nói đàn bà dính với văn chương thường là nhọc nhằn, bất
hạnh; lại bảo chỉ có làm sao đấy mới chạy trốn vào văn thơ? Con gái ở nông thôn
làm thơ càng bất hạnh hơn. Sổ nhật ký của tôi đầy tâm sự, có gần một trăm bài
thơ. Bài thơ nào cũng mang nỗi niềm bâng quơ, thoắt vui, chợt buồn đúng như cái
tuổi mười sáu mười bảy của tôi vậy. Tuy nhiên, tôi dấu cha, dấu bạn bè, tôi làm
thơ cho riêng mình. Cha tôi bảo: “Học nhiều chỉ tổ xí xớn theo giai. Đứng núi
nọ trông núi kia làm gì. Tao không thể nuôi báo cô mày mãi. Lấy chồng đi cho
xong chuyện.” Cha không cho tôi học tiếp. Chân trời xa của tôi chỉ dừng ở trong
luỹ tre làng. Chả lẽ cuộc đời tôi cứ đi cấy, đi cắt cỏ, đi chăn dê và thỉnh
thoảng đánh xe trâu thay cha lên ga Xép rồi lấy chồng?
Tôi
lại nghĩ đến đồng chiều.
Tôi nghĩ về sự ngổn ngang cuống dạ.
Cuống dạ toẽ ra, nát nhừ khi vịt đàn đi qua.
Cuống dạ nhấn sâu dưới bùn khi chân trâu bước qua.
Đồng chiều vui, buồn, đớn đau, tủi hổ
Khi mặt trời đi qua, mặt trăng đi qua
Ngọn gió hoang lùa qua
Cánh cò cánh vạc bay qua
Bước chân người lam lũ đi qua
Mồ hôi trâu bò lẫn bùn non ngai ngái
Tôi cúi nhặt giọt mô hôi người thợ cày
Tôi lượm giọt nước mắt người thợ cấy
Tôi đau đớn, tôi gọi: Đồng chi…ều!…
Cha
tôi biết chuyện.
Lúc
ăn cơm, cha bảo: “Cái thứ nhà quê như mày ngàn đời nay vẫn ngu, Na ạ. Lòng tốt
hão, nhiều khi lại tiếp tay cho thói kênh kiệu làm người ta kênh kiệu thêm. Cái
bọn thành phố như nó chỉ muốn đè nén, áp bức nông thôn mình. Tội đếch gì mà sỹ
diện hão. Sao mày không lấy tiền của lũ chúng nó đem cho cô Nếm điên ấy.” Tôi
nhai trệu trạo, miếng cơm như miếng rơm rạ. Có vẻ như cha tôi rất ghét người
thành phố, ghét đến mức đố kỵ. Theo ông thì nông thôn chỉ là bãi rác thải, là
nơi dừng chân của người thành phố. Người nhà quê chỉ dùng lại đồ cũ, đồ hạng
ba: Xe máy cũ, quần áo cũ, hàng hoá chất lượng thấp đều do người thành phố tuồn
về. Họ bắt nạt sự ngu dốt của thôn quê. Còn các đồ ngon nhất người nhà quê lại
đưa ra thành phố: Rau sạch, gà ri, lợn ỉn, dê, bê non, tôm hùm, cua bể… Bao
nhiêu đồ ăn ngon người nhà quê đều cắp củm dành dụm mang bán cho người thành
phố. Lẽ sống đời của người nghèo nông thôn vẫn là buôn trầu ăn chũm cau. Người
nhà quê đều là người nghèo. Khổ thế!
Hoá
ra, thời nhỏ, cha tôi và cha anh là bạn chăn trâu cắt cỏ rất thân nhau. Học hết
cấp ba trường huyện thì số phận quẳng mỗi người đi một nơi. Nhà nghèo, cha tôi
phải ở làng theo đít trâu, đi cày. Cha anh học lên đại học, lấy vợ người Hà
Nội, cũng chả thấy cha anh đưa vợ về quê bao giờ. Người nhà quê bảo: “Con mẹ ấy
không dám về nông thôn. Đi đường giẵm phải cứt trâu, ra vườn đạp phải cứt chó,
ngồi trên hố xí hai ngăn, hơi thối bốc lên đít, nhìn xuống thấy bọ nhung nhúc,
con mẹ Tràng An ấy chịu sao được. Người thành phố thơm tho sạch sẽ quen rồi…”
Lâu lâu, cha anh mới đảo về quê một lần. Cha tôi bảo: “Đấm thèm vào mà ra Hà
Nội.” Tình cảm cứ nhạt dần. Nhạt là phải! Tình cảm như con vật, con vật không
được nuôi dưỡng chăm sóc con vật ốm o bệnh tật rồi chết. Tình cảm mà không năng
đi lại vun quén, tình cảm chẳng còn. Mấy chục năm, thời gian biến cải, cha anh
đã là một nhà kinh tế luôn sống ở nước ngoài, cha tôi vẫn là một thợ cày quanh
quẩn từ làng ra đồng, từ đồng về làng. Xa nhau cũng là điều dễ hiểu.
Tôi
về một lúc thì trăng lên. Trăng neo trên ngọn cây cau, đứng im phăng phắc.
Không thấy gió thổi, chẳng thấy mây trôi. Thôn quê ngưng đọng tĩnh lặng quá. Cứ
mãi thế này ốm mất.
Bên
nhà bác Hán, anh bảo cái Hương: “Chiều nay, em đi xe trâu người ta không lấy
tiền.” Cái Hương nói ngay: “Người ta là bạn chị đấy.” Anh khen: “Bạn chị xinh
nhỉ. Người eo tuyệt vời. Con gái nhà quê, eo đẹp thế là sự lạ. Cái mũi dọc dừa.
Mắt như mắt nai. Xinh lắm! Nhưng mà tù hãm, đôi mắt đang báo hiệu một sự tù
đọng” Cái Hương hỏi: “Thăng nhìn thấy mắt nai ở đâu, đi săn thấy ở rừng à?”
“Không. Em thấy ở trong vườn bách thú.” “Thế ra Thăng bảo bạn chị như con nai
đẹp bị nhốt trong vườn bách thú, hở?” Anh chỉ mỉm cười thay cho câu trả lời. ấy
là hôm sau cái Hương kể cho tôi nghe. Nghe biết vậy, càng thêm buồn.
Đường
làng lênh loáng ánh trăng, màu vàng bát ngát trùm lên xóm mạc. Đang kỳ nghỉ hè,
thỉnh thoảng bọn trẻ con lại chạy bình bịch lên trước mặt rồi đánh ào một cái
ẩn vào bụi cây bên đường. Chúng đang chơi đánh trận giả. Anh và cái Hương đến
cái giếng mặt nguyệt ở đầu làng. Tôi đang ngồi ở thềm giếng gội đầu. Mặt giếng
tròn vành vạnh. Trăng nhởn nhơ soi mình dưới nước. Xung quanh rơm rạ cuối vụ
gặt còn phơi đầy, vương cả vào thềm giếng. Tôi cầm nắm lá bưởi vò nhàu thả vào
chậu nước gội đầu. Mùi lá bưởi xanh hăng hăng xộc vào mũi. Cái Hương bảo: “Tao
biết ngay mà. Thế nào mày cũng ở đây.” Tôi ngước mắt lên: “Đồ ỡm ạ.” “Thăng có
biết ai đây không?” “Đây là cô gì đánh xe trâu chở thuê.”
Cô
gì đánh xe trâu… Tự nhiên tôi chạnh lòng, buồn. Cái Hương bảo:
-Bọn
con gái nhà quê chúng tôi thường gội đầu bằng nước quả bồ kết nướng. Một tháng
vài ba bận gội bằng lá bưởi.
-Người
nhà quê hay nhỉ?
Lại
cái câu chết tiệt lặp đi lặp lại không biết bao nhiêu lần này.
-Chứ
không à. Bọn con gái thành phố, toàn dùng dầu gội đầu đóng hộp. Chắc gì cái nào
hơn cái nào.
Lát
sau, mùi hăng gắt mất đi, chỉ còn mùi lá bưởi thơm thoang thoảng. Tôi đứng dậy
túm tóc quay vù vù, bụi nước bắn vào cả mặt anh. Tôi nghĩ đến quả bồ kết, đến
lá bưởi và chuyến xe trâu đi qua đồng chiều, nghĩ đến tôi, đến thân phận của
các cô gái làng.
Cái
Hương bảo: “Thăng có biết bao nhiêu đôi lứa nên vợ nên chồng ở cái giếng này
không?” Tôi giơ tay hong tóc dưới trăng, giục giã: “Hương kể cho anh Thăng nghe
đi.” “Kể thì kể.”
…
Ngày trước, yêu đương nhau, các cụ gọi là phải lòng í, có được tự do đi chơi
bời, hôn hít nhau như bây giờ đâu. Muốn nhìn nhau, muốn nói với nhau câu gì,
muốn hẹn nhau cái gì cứ xách thùng ra giếng làng gánh nước. Trai nhìn thấy bắp
chân trần trắng nõn của con gái, động lòng ham muốn và yêu. Gái làng nhìn vồng
ngực căng đầy nở nang, bắp tay săn chắc như cuộn chão của trai làng là động
tình, yêu. Không có giếng làng chưa chắc họ đã thành vợ thành chồng. Lại có
người đàn bà ra thành giếng vỗ bồm bộp: “Giếng ơi giếng. Tao thù mày. Tao thù
mày. Không có giếng tao chẳng gặp cái thằng bạc tình ấy.” Chị ta điên vì thất
tình, vì bị phụ bạc. Không có giếng làng chưa chắc chị ta đã bị phụ tình. Ngày
ấy, chị ta là chị; bây giờ là cô – cô Nếm ba mươi lăm tuổi vẫn điên vì tình…
-Người
nhà quê hay nhỉ?
Cái
Hương thật thà:
-Ừ,
người nhà quê hay thật. Chúng mình đi dong đường chơi nhá. Đứng đây mãi bất
tiện, người làng ra múc nước lại đồn nói chuyện với giai.
Tôi
cũng nói:
-Ừ.
Đừng đứng đây. Mang tiếng lắm.
Ba
chúng tôi đi bộ ra cây đa đầu làng. Đường làng toàn gạch Bát Tràng lát
nghiêng, có chỗ đi lại nhiều gạch lõm xuống. Gốc đa đầu làng vắng ngắt. Đa chín
rơi bộp, bộp. Tiếng chim đi ăn đêm thả vào không trung thanh vắng. Cái Hương
bảo: “Na, đưa chậu tao tìm chỗ dấu cho. Đi chơi ai lại cầm chậu thế này.” Cái
Hương giật chậu nhựa từ tay tôi đi cùn cụt. Mãi chả thấy cái Hương quay lại.
Anh bảo: “Cô gì ơi. Tôi ở bên úc về lạ nước lạ cái. Cái gì cũng lạ. Cô cho tôi
đi thực tế nông thôn với.” “Anh Thăng hãy gọi em là Na. Tên quê mùa lắm phải
không?”
Tóc
tôi buông dài hong gió. Anh đi bên tôi, xa lạ và gần gũi. Mười bảy tuổi, lần
đầu tiên tôi đi cùng một người con trai. Anh từ đâu đó đến, vụt sáng chói loà.
Những thằng bạn ở lớp, những đứa con trai ở làng chỉ còn nhỏ bé, dại dột và mờ
nhoà trong tôi. Bất ngờ, anh vơ tóc sau lưng tôi, tay anh chạm phải dây nịt vú.
Tôi rùng mình, run dẩy. “Tóc em đẹp lắm.” Cả mớn tóc chưa khô ấp vào mặt anh.
“Mùi lá bưởi, mùi đồng quê.”Anh thì thầm, anh quàng tay lên vai tôi. Người tôi
nóng ran ran. Anh xoay người kéo tôi vào lòng ôm chặt. Ngực tôi căng cứng dềnh
lên từng đợt, từng đợt. Bàn tay có những móng dài lần tìm ngực tôi trong làn
áo. Một cái móng tay dài chạm vào núm vú, tôi như người bị điện giật. “Đừng
anh!” Nói, nhưng tôi không đẩy tay anh ra. Lần đầu có người con trai chạm vào
da thịt tôi.
Bất
chợt có tiếng chửi vọng ra từ cái nhà kho cũ đã sạt một góc của Hợp tác xã. Tôi
giật mình. Giọng đàn bà, chửi rất bài bản, ngoa ngoắt. Chửi rằng:
Cha
tiên sư thằng đi qua
Cha tiên sư con đi lại
Mày bày mưu lập mẹo
Mày bắt con của bà
Bà chửi mày:
Cho trốc mồ lật mả
Cho quạ nó tha
Cho gà nó mổ.
Cho chết sông chết chợ
Chết vợ chết chồng
Chết cả tông giống năm đời,
mười đời nhà mày nhá…
Tôi
đã ra khỏi vòng tay anh từ lúc nào. “Lạ quá! Chưa bao giờ anh được nghe đàn bà
chửi như thế này. – Anh bảo vậy. – Chửi rất ngoa ngoắt nhưng không tục tĩu,
nghe như hát, như xướng khúc đồng dao, như mê hoặc lòng người. Trong các đường
phố Xít Nây hay những đồng cỏ mênh mông nước úc, người ta cũng chửi nhưng cục
cằn, thô lỗ; khác thế này lắm.” Tôi nói: “Cô Nếm đấy. Đêm nào cũng chửi. Chửi
sốt ruột. Có đêm em không ngủ được, nghe mãi cũng thuộc các bài chửi.” “Cô gì
cũng giỏi nhỉ?” “Thật đấy! Anh có ai bắt nạt, em đến chửi thuê cho.” “Hay.
Người nhà quê hay nhỉ?”
Chẳng
ai biết cô Nếm từ đâu đến. Cô là người đàn bà bị phụ bạc tình phát điên bên
giếng làng. Người lại bảo cô ở trên mạn Khánh Thượng xuống. Dân làng đã quen
với tiếng chửi của cô Nếm điên mười mấy năm rồi. Cô không nhà cửa cô đi lang
thang, nay cấy thuê cho nhà này mai gánh phân cho nhà kia. Cho tiền biết cầm;
cho cơm, dong giềng, khoai lang luộc biết lấy ăn. Ban ngày đi làm thuê, ban đêm
về nhà kho cũ, hoặc thềm hè nhà trẻ ngủ, ngủ không chăn không chiếu. Một ổ dạ
là đủ vừa nằm vừa đắp. Mùa đông cũng như mùa hạ, cô Nếm điên sống trơ trơ cùng
nắng mưa giá rét. Được cái trời thương, trời cho cô sức rất khoẻ. Chỉ phải mặt
nhàu nhĩ nhăn nhúm, còn đùi vế nần nẫn, hai vú thây lẩy. Dường như thời tiết
mưa nắng, giá lạnh bất lực trước sức khoẻ của cô. Cái sinh lực tràn đầy nóng
hổi của người đàn bà điên ấy không biết là sự may mắn hay bất hạnh. Những đêm
mưa dầm dề lê thê, những đêm đông lạnh giá kinh người có sức quyến rũ mời gọi
bọn đàn ông đổ đó, đơm lờ, trúm lươn đêm mò đến. Lại những trưa, cô Nếm cấy
thuê ở đồng không sông quạnh gặp bọn đun riu, kéo vó, đun te. Lúc ấy, không
phải người với người nữa mà hoàn toàn là khát thèm sinh vật. Cứ vài năm, lại
thấy cô Nếm chửa, bụng to kễnh. Không ai biết cô đẻ ở đâu, và những đứa bé ấy
ai rình bế mất, bế đi đâu? Chỉ biết ắng đi vài ngày lại thấy cô xuất hiện với
cái bụng lép kẹp, lại đi làm thuê. Gái mới đẻ đi làm thuê và chửi rất kinh.
Chửi ngày này qua đêm khác, cô chửi rất to kẻ nào bế trộm con cô…
-Chửi
tài thật. Người nhà quê hay nhỉ?
-Thôi,
về đi, anh Thăng. Nghe cô Nếm chửi sốt ruột.
Tôi
và anh về ngõ nhà bác Hán lúc cái Hương đang khoá cổng chuồng dê. “Chậu tao để
trong sân kìa. Hai đứa về ăn ốc.” Hương ghé tai tôi nói nhỏ: “Tao giả bộ giấu
chậu, về trước cho hai đứa mày tự do.” “Đồ nỡm. Thôi tao về đây chẳng chết với
ông già.” “Sướng bỏ bà còn làm bộ”.
Sáng
hôm sau, nhà tôi đánh gốc tre. Bụi tre đã chặt từ mấy tháng trước ngâm dưới ao,
móc bùn phủ lên để sau này làm bếp. Bụi tre như cái nong, dày chi chít,
cây nọ chen cây kia, giờ chỉ còn gốc. Cha tôi nhờ bác Hán sang đánh giúp.
Bác Hán cởi trần, mặc quần đùi, người vai u thịt bắp, khoẻ lắm. Phập… Choạc.
Phập… Choạc. Bác có xà beng và cái búa như lưỡi tầm sét của Thiên Lôi. Mới hưng
hửng sáng, bác đã đánh được một góc bụi tre. Tôi đứng vòng ngoài phụ giúp nhặt
củi xếp thành đống. Anh Thăng sang, bảo:
-Tối
hôm qua mút ốc ao. Kinh quá.
Tôi
tự ái lây, bảo:
-Anh
thì cái gì cũng kinh. Nhà quê chỉ có thế thôi.
-Thật
đấy. Anh bước vào sân đã thấy bác Hán gái, chị dâu cả, chị Hương cùng xúm vào
rổ sề ốc luộc. Bác Hán gái bảo: Thăng ngồi xuống đi. Chị cả ngồi lui ra một tý
nào. ốc ngon lắm, cháu ạ. Anh ngồi xuống chả biết cách ăn làm sao. Bác Hán gái
dạy: Cháu cầm thế này này, đưa đít ốc vào răng hàm cắn một mẩu nhỏ, xoay con ốc
lại đưa mồm nó vào miệng mình. Mút. ừ. Mút đánh chụt một cái. Đấy, ngon chưa?
Anh làm thử, cắn đít ốc ê răng, mút chụt… chụt mấy lần thịt ốc vẫn chẳng ra. Cứ
như thời ăn lông ở lỗ! Không ăn nổi, đành thôi. Thổ dân úc thời nguyên thủy
cũng chỉ ăn đến thế là cùng. Kinh bỏ cha. Bác Hán gái bảo: Chẳng biết bên úc
người ta có mút ốc thế này không, cháu?
Bác
Hán dừng búa bổ gốc, gạt mồ hôi trán: “Thằng này mất gốc rồi. Để tao bảo thằng
bố mày.”Anh làm ngơ, nói lảng: “Bác cho cháu bổ thử vài cái”. “Tiên nhân mày.
Tay học trò trắng thế kia thì làm ăn nỗi gì.” Anh Thăng bổ. Phịch… phịch… vài
cái thì văng búa. Lại lấy bổ tiếp: Phịch… phịch. Mệt quá bỏ búa, cầm xà beng.
Cuối cùng bỏ nốt. Cha tôi đánh xe trâu về đến cổng nhìn thấy. Ông để nguyên cả
ách trâu bước lại gần: “Hỏng! Cái giống học trò trói gà không chặt chúng mày
chỉ giỏi tán gái là nhanh. Trông mong gì lũ trẻ chúng mày. Thôi, để chúng tao
múa. Đàn ông gì èo uột quá.” “Bác cứ nói thế chứ. Mỗi thời mỗi khác.” Anh
ngường ngượng, mặt đỏ nhừ. Không biết bên úc người ta có tre để mà đánh gốc
không nhỉ?
Buổi
chiều, tôi đánh xe trâu ra đồng cắt lúa với cái Hương đổi công đánh gốc tre của
bác Hán. Khoảnh lúa cuối cùng của nhà cái Hương cào cào, châu chấu, muồm muỗm
nhiều vô kể. Cứ như cả cánh đồng chúng dồn nốt vào mấy khoảnh cuối cùng. ở góc
đồng sát gò Mã Giáng, anh Vường đang úp nơm uồm uồm, bắt cá. Cái anh này là tay
sát cá hạng nhất ở làng. Có buổi chiều, ruộng cạn nước, anh cạy tiểu sành vỡ
nắp bị chòi ra ở chân gò. Cá trê ở trong tiểu đựng xương cốt người, lúc nhúc
béo vàng ươm. Anh thò tay vào gạt xương bắt từng con một bỏ vào giỏ. Sáng hôm
sau, vợ anh Vường đi chợ sớm bán cá. Từ hôm ấy, nhà tôi không bao giờ mua cá
của anh Vường. Sau này, cứ thấy cá trê kho trong nồi là nghĩ đến các gióng
xương, tôi nôn, nôn thốc nôn tháo.
Anh
Thăng cũng ra đồng gặt. Tay lêu hêu cầm liềm trông rất buồn cười. Anh gọi tôi:
“Cô gì ơi! Tôi đi khắp nơi, nhưng về quê tôi vụng lắm. Cô dạy tôi cắt lúa nhé.”
“Nó là Na. Thăng cứ tên Na mà gọi.” “à. Vâng! Na dạy tôi nhé!” Cái Hương nhay
nháy mắt, trêu anh: “Có mỗi cái tên mà quên thì nhớ người nó sao được.” Tôi lại
gần anh: “Anh nhìn em làm đây này.” Xoẹt. Lưỡi liềm đưa rất nhanh. Anh làm
theo. Trời ơi! Cắt lúa mà như cò cưa, cò cưa. Tôi và Hương phá lên cười.
Anh
gọi: “Cô gì ơi! à quên. Na ơi. Năm nay Na thi vào đại học gì.” Tôi bảo: “Em vào
đại học tiếng Anh, gọi là Cay Đì.” “Lại có trường đại học ấy nữa. Tên lạ nhỉ?”
Cái Hương lanh chanh: “Cay Đì tức là đi cày. Sao Thăng tồ thế. Có vậy mà cũng
không hiểu. Bố nó không cho đi học bắt ở nhà cấy cày, đánh xe trâu, chăn dê. Nó
đang buồn đấy.” Anh có vẻ nuối tiếc cho tôi: “Thời đại này là thời đại bằng
cấp. Chỉ có học và học, học mới thoát khỏi đồng ruộng, con trâu cái cày. Cô gì
không học, rất gay…” Càng nghe anh nói tôi càng buồn. Tôi buồn cho thân phận
không thoát khỏi làng của tôi. Anh lại hỏi Hương: “Còn chị Hương, em thấy trên
bàn chị toàn sách Địa lý, Văn học. Lịch sử Việt Nam.” “Mình muốn sau này làm
nhà sử học.” “Chị Hương nên học toán. Thời đại này là thời đại toán, tin học.
Chị có biết vì sao kinh tế Việt Nam mình thua kém thế giới không? Không à! Là
vì Việt Nam mình không có một nền toán học cho ra hồn. Thời đại tin học kỹ
thuật số mà chị còn ngồi nhai nhải Nguyên nhân thất bại của Cao trào Xô viết
Nghệ tĩnh thế là không thực tế.” “Mỗi người một đam mê, Thăng thích tin học
nhưng chị thích làm nhà sử học. Thày giáo chị bảo: Làm dân nước Việt không biết
sử nước nhà là không biết hồn nước. Thăng có biết ông tướng nào là Tổng chỉ huy
đánh Điện Biên Phủ không?” Thăng ngập ngừng: “Ông…ông… à mà em không biết
thật.” “Không biết thật?” “Vâng! Ba năm học phổ thông trung học bên úc, người
ta không dạy em học Lịch sử Việt Nam.” “Phải rồi! Thăng sẽ học lịch sử, địa lý,
văn học nước úc chứ. Lại còn các môn khoa học xã hội và nhân văn khác? Thăng
mang trong người văn hoá gốc nước Việt hay nước úc nhỉ?” Không ngờ cái Hương
đáo để thật. Anh ngượng nghịu, hơi cúi người rồi bỏ liềm, giả vờ đi bó lúa;
cũng lội lọp sọp, lọp sọp, nhưng bước không vững, người cứ như sắp ngã. Đúng là
giời đày!
Anh
bắt gặp bắp chân trần của tôi. Anh cúi ôm lúa và mon men đến gần. Anh dán mắt
vào bắp chân trần trắng vấy bùn của tôi và cố tình cúi chạm tay vào. Người tôi
tê tê, tay rơi cả nắm lúa đang cắt.
-Thăng
bắt muồm muỗm, cào cào đi. Gặt xong chúng mình đốt lửa nướng.
Có
lẽ cái Hương đã nhìn thấy anh vuốt bắp chân tôi? Anh Thăng nghe lời bỏ liềm, bỏ
bắp chân tôi, đi chộp cào cào. Tôi và cái Hương thỉnh thoảng bắt được con nào
đều vặt chân bỏ vào mũ anh đang bưng.
Chất
lúa lên xe trâu xong, tôi và Hương vơ rạ rơm khô người ta phơi ở gò Mã Giáng
nổi lửa. Anh Thăng nghiêng mũ đổ cào cào, muồm muỗm vào. Râu, cánh, cháy khét,
mỡ reo xèo xèo. Dập lửa bới tro, con nào con nấy bụng chín vàng, căng mọng. Hơi
lửa làm mặt tôi và cái Hương đỏ hồng, mắt lúng liếng sáng. Anh Thăng nhìn tôi
chăm chắm. “Thăng! Ăn đi nào.” Anh giật mình: “Em không biết cách ăn.” “Na! Mày
dạy Thăng, hộ tao.” Tôi hướng dẫn anh vặt đầu muồm muỗm, vặt chỗ cánh cháy còn
lại mà tay luống cuống quá. Vừa ăn vừa tán chuyện, ngón tay, miệng, cằm đứa nào
cũng nhọ nhem. Anh bảo: “Người nhà quê hay nhỉ?”
“
ối giời ơi!”- Suồm … suồm. – “Người chế…ết…” Phía góc đồng sát gò Mã Giáng, anh
Vường bỏ nơm chạy uồm uồm lên bờ. Sao lại có người chết nhỉ? Người cứng bóng
vía như anh Vường mà còn hốt hoảng thế. Ba chúng tôi chạy đến. Anh Vường đã
trấn tĩnh lại. “Trẻ con… trẻ con chết. ở kia kìa. Tôi úp phải.” Cái Hương bảo:
“Anh thử lật nơm lên xem nào. Có khi trông gà hoá cuốc. Cái bắp chuối nhà nào
vứt cũng nên”. “Thật đấy! Xác trẻ con. Tôi thò tay vào trong quờ phải.” Anh
Vường lại lội xuống rồi thò tay nắm cổ nơm nhấc mạnh. Một cái xác trẻ sơ sinh
(một cái thai thì đúng hơn) nổi lên và cái tã đụp màu nâu lều lều. Thôi rồi!
Tôi đã nhận ra cái tã cô Nếm điên khoác mấy hôm trước đi gặt thuê cho nhà tôi. Hôm
ấy, bụng cô mới lùm lùm, còn lâu mới đến tháng đẻ. Hay là cô Nếm sảo non. Nhưng
ai là người theo dõi cô sảo non và vùi cái thai chưa thành người xuống đồng?
Cái Hương mặt rất đăm chiêu. Anh Vường đã điềm nhiên trở lại làm việc nghĩa.
Còn anh Thăng mặt kinh hoàng bạc phếch, miệng lẩm bẩm: “Tối tăm quá. Dã man… dã
man quá.” Buồn! Tôi lại nghĩ về những sinh linh ở làng: Nhỏ nhoi. Mong manh. Và
bấy dậy…
Đi
qua liêu trai đồng chiều!
Bỏ lại cuộc sống xô bồ, đập va
Tôi đi qua, anh đi qua
Hãy lắng nghe
Gió hoang đuổi nhau hú gọi những linh hồn.
Nức nở luân hồi
Một, hai sinh linh, cả ngàn sinh linh…
Các xó xỉnh tối tăm
Những lương tri man dợ
Đâu những vì sao, đâu ngọn nến cháy…
Lại
một buổi chiều. Một buổi chiều nữa đi qua. Tôi đánh xe trâu về đến cầu Lồng,
dừng lại xem bọn trẻ con cắt cỏ, chăn bò đánh chắt đánh chuyền. Những đuôi tóc
hoe vàng vì cháy nắng, những gương mặt sạm gió, những đôi mắt trong veo ngơ
ngác. Cười và lại cười. Mắt lấp lánh dải que chuyền, tung quả găng.
Chuyền
chuyền một.
Ăn củ khoai
Chuyền chuyền hai
Thích con trai
Chuyền chuyền ba
Ra con gái
Chuyền chuyền bốn…
Rồi lại:
Về
làng
Phá cỗ
Xa làng
Xin ăn
Đi qua đồng
Về sang sông
Một cây ngô đồng
Hai cây ngô đồng
Gần thì nhớ
Xa là quên
Về qua sông
Đi qua đồng…
Xe
ô tô tránh xe trâu của tôi và đỗ ở đầu cầu. Bọn trẻ con vội vã đứng dậy và dụi
mắt tránh bụi. Cái Hương xuống xe chạy ngược về phía tôi: “Tối qua tao sang mày
đã ngủ sớm. Tao đi Hà Nội đây.” “Mày đi thật à.” “Chú tao đánh điện về. Ra đó
học ôn thì mới đỗ vào đại học.” Con Đen bị ruồi trâu cắn cứ dậm chân đòi đi,
đuôi quất lên lưng đèn đẹt. Hai sừng cánh ná đánh cồng cộc vào ách vai. Anh
đứng bên cửa xe, từ xa nói với đến: “Chị Hương cẩn thận. Cái sừng cánh ná con
trâu kinh lắm.” Tôi lại hỏi: “Mày đi thật à?” “ừ, tao đi nhá.”
Cái
Hương vội vã chạy quay trở lại. Anh kéo rộng cửa xe cho Hương vào. Vẫn bộ đồ
hôm anh về đi nhờ xe trâu nhà tôi: Quần bò, áo thun có in hình con Kănguru. Anh
chui vào xe, thò đầu ra ngoài giơ bàn tay có những móng dài trắng hồng vẫy vẫy:
“Cô gì ơ… ơi! Tôi đi nhé.”
Một
đám bụi mù cuốn sau xe ô tô con.
Tôi
ứa nước mắt. Tôi nhìn xuống dưới ngực, cảm giác có các ngón tay móng dài, trắng
hồng của anh đang lùng sục trên bầu vú như đêm trước hiện về. Tôi tủi thân.
Hoàng hôn đỏ ối một góc chân trời. Tôi đánh xe trâu về…
Gió
thổi.
Gió
thổi miên man đi qua cánh đồng chiều. /.
Thanh
Xuân Nam.Tháng 5. 2002
Sương Nguyệt Minh
Từ trang DDQGHCUC
No comments:
Post a Comment