CÔ BA TRÀ, HUÊ KHÔI SỐ MỘT
SÀI GÒN
Trong quyến “Hồi ký 50 năm mê hát” xuất bản năm 1968 (nhà xuất bản Phạm
Quang Khải, 29 Yên Đổ, Sài Gòn), nơi trương 109, có mấy hàng như sau: “Để thấy
cái ngông cái gàn của kẻ nầy, xin nhắc một việc cũ nay nhớ mà còn thẹn thẹn”…
Vương
Hồng Sển,
trích Sài Gòn tả pín lù
Quả không có cái gì mà tôi không muốn không ham. Thậm chí, tiền không
có, bề thế cũng không, mà đèo bồng nhiều việc lếu. Ngày mồng một tháng ba dương
lịch 1924 đi xem hát cải lương tại rạp MODERN, đường d’Espagne (Sài Gòn). Lá
lay tôi được ngồi gần cô Ba Trà, lúc ấy đang sáng chói trong tiền, trong nhan
sắc, và sắm xe hơi có tài xế phụ, để dành mở cửa.
Cô Ba ngồi một dãy ghế thượng hạng với bản sĩ Lê Quan Trinh, ông toà
Trần Văn Tỷ và thầy Sáu Ngọ, tức Paul Daroll, “vua cờ bạc lừng danh thuở ấy”.
Trớ trêu thay, bên tay mặt và sát ghế cô 1 là ghế của kẻ nầy. Cô ngồi xem mà mùi nước hoa làm tôi ngây ngất
và khi nửa chừng cô ra về, tôi hết biết trên sân khấu hát ca những gì. Cô Ba
Trà vụt vụt lên như diều gặp gió lên xe xuống ngựa mấy chục năm trường tôi thì
một rương sách, một túi áo quần, để sau còn đùm đề thêm ba cái đồ sành cũ ưa bể
và nứt rạn… Bỗng mấy chục năm sau, y như trong giấc chiêm bao, cô Ba Trà và
tôi, tình cô gặp lại, nơi một sòng tài xỉu ở nhà xét Đại thế giới Chợ Lớn, sau
trận phong ba 1945. Tôi thì đầu đã điểm sương, nhưng rắn rỏi phong trần già
giặn. Cô thì đã mất phong độ năm nào nhưng sau khi tay bắt mặt mừng, cô hỏi nhỏ
tôi nhan sắc cô nay kém hơn trước tới bực nào. Tôi đáp tỉnh bơ: “Đối với tôi,
tôi chỉ biết cô là người y như hình chụp treo trong tủ kiếng trước cửa nhà
“photo Khánh Ký” đường Bonard, lúc tôi còn học trường Chasseloup mà mặc trời
mưa trời gió, chúa nhựt nào tôi cũng phải ra trường đến ngắm tiên dung rối mới
trở về trường ăn ngủ được “và” đã khiến tôi thành thi sĩ, xin lỗi, thành thợ
thơ nọ”. Nhờ câu ấy, cô cười, hai hàm răng vẫn trắng đẹp như xưa, và cũng từ
đó, cô thâu dụng tôi làm “bí thư không nhận lương” suốt một thời gian khá lâu,
khi thì nhơn danh cô, viết thư cho bà toà T.V. Tỷ, khi thì mượn danh bà trị
bịnh trĩ Lê Minh Đường, cũng gởi thơ khẩn thiết nhắc việc cũ, tiền ân cựu ngởi,
khi thì gởi cho đôi ba người khác, thơ đi thì tôi viết, thơ trả lời thì cô nhận
mà không bao giờ cho viên bí thư nầy biết, nhưng có lẽ kết quả làm cho cô vừa
lòng, nên tuy không trả lương nhưng thoảng cô cũng ban bố huệ ân mưa móc đủ mát
lòng đây! Nếu tính sơ sơ theo cuốn nhựt ký hằng ngày năm 1952, tôi gặp cô những
lần sau đây:
Cô ba
Trần Văn Trà. Ảnh: T.L.
– chiều chúa nhật 4 mai đến 5 giờ sáng, nằm tiệm X…
– đến chiều thứ tư 14-5, chờ mãi ở viện bảo tàng, cô hẹn mà không đến.
– thứ hai 19-5, năm giờ chiều cô lại musée lấy bức đánh máy thơ viết ký
L.M.Đ gởi bà Tỷ,
– thứ sáu 23-5, cô ghé V.B.T. nhờ đánh máy lại bức thơ riêng…
– sau đó, suốt bốn năm tháng, vẫn gặp thường thường trước ở sòng Đại Thế
Giới, cùng với kỹ sư Phạm Kim Bảng, rồi bộ ba chạy xe vô động hút khu đất thánh
nhà, nằm nghe cô vừa kéo ống ro ro vừa kể tâm sự, tỷ tê… rồi đến lượt tôi kể
vài đoạn éo le trong Tam Quốc Chí, đến một hai giờ khuya, Bảng mới lái xe đưa
ai về nhà nấy, nhưng cô vẫn xuống xe góc Trần Hưng Đạo khu Hoà Bình, không cho
biết nhà…
Cô thuật tiểu sử cho tôi lấy notes, vừa thấy hay hay, kế cô cho biết vì
không tiền mua cơm đen, cô đã bán thiên tài liệu về cuộc đời cô cho một ông bạn
nhà văn (cố giao Trần Tấn Quốc lấy viết trong báo TIẾNG DỘI từ tháng 5-1952
(dương lịch), làm 70 bài dài lần lượt tôi sẽ ghi lại nơi sau. Nghe vậy, tôi
dửng dưng xin chép chuyện “Tiểu sử nhơi bã mía, và chỉ giữ lại cho đến hôm nay
hình bóng một người tuyệt sắc từng vãi bừa bạc trăm bạc ngàn qua cửa sổ, hại
sạt nghiệp không biết bao nhiêu tim can…, nay không còn một xu ten “để cạo gió”
và vẫn nuốt cơm trắng cơm đen kéo dài cái kiếp sống thừa, không biết cho đến
ngày nào? 2
Cô
Ba Trà kể lại cuộc đời
Dẫn: Tôi còn nhớ rành rành như chuyện vừa xảy ra hôm qua hôm kia đây, là
bữa đầu tôi gặp cô Ba trong Đại Thế Giới là lúc tôi đang đeo theo kỹ sư Phạm
Kim Bảng để xin một miếng đất của đô thành, hầu như dựng lên vuông nhà hiện nay
tôi đang ở, còn cô Ba khi ấy gần như thường trực đêm nào như đêm ấy cô vẫn có
mặt tại các sòng me, để canh chừng khi thuận chiều “ké vô vài chén chạy gạo”,
hoặc khi nào các công tử quen xưa hết vốn, cô sẽ chuyển vận lương thảo cho các
cậu gỡ gạc với điều kiện “tiền viện trợ cấp thời” nầy đẻ mỗi ngày là mười phân
trăm số vốn, tỷ dụ cho mượn 2.000 đồng thì mỗi ngày tiền lời là 200, bạc vốn
vẫn còn nguyên, khi trả phải chìa ra đủ 2.000 răng rắc. (Mấy lúc sau đó, khi
tôi hay được cô làm nghề mà tôi cho là quá mạo hiểm và phân tâm với cô rằng cô
“không sợ chúng giựt hay sao?”, cô đã trở lời mấy tiếng cụt ngủn làm cho tôi
toát mồ hôi vì quá thiết thực: “Các cậu bao giờ đi giựt tiền một con đĩ như tôi
làm vầy?”) Tôi thuở nay đâu có ưa cờ bạc và tôi vào Đại Thế Giới hằng bữa để
làm gì?
Nhưng như đã nói, lúc đó tôi đang theo sát kỹ sư Bảng, và Bảng là con
sâu cờ bạc, khiến nên tôi gặp lại cô Ba cũng nhờ Bảng. Hai tôi cô Ba và tôi,
vẫn không xa lạ. Lúc tôi ở trọ nhà 108 đường Bonard, lối năm 1925-1926, thì cô
có đến đây mỗi khi trong nhà có tổ chức “hốt me chạy”. Lúc đó một bữa nọ không
biết ai đã chọt mất của tôi một sợi dây chuyền vàng đeo đồng hồ bỏ túi mà tôi
để quên trên lầu, trong khi tôi đang kiếm, cô hay được, cô thốt ra một lời bộc
trực mà khi ấy tôi cho là “chạm nhiều vào lòng tự ái” là “Đi lấy làm chi của
người ta? Người ta ăn lương một tháng không bằng mình đặt một tụ con con.
Thiệt, ai đó, lấy làm chi của người ta như vậy?” Ngày nay tôi đã trên tám mươi
và đã có nhà có cửa đàng hoàng, thì tôi xét ra câu nói của cô tỏ lòng thương
hại hơn là khinh khi, nhưng lúc nhỏ háo thắng, “mình ước ao muốn nó mà nó đành
lòng nói một câu như vậy, lúc đó tôi cho là “tổn đức” và định tâm phải làm sao
cho có phương cách trả thù một phen mới nghe cho!” Bảng làm kỹ sư coi về đất
địa đô thành, lúc đó ông đô trưởng Nẫm họ Lê, có hứa cho tôi một miếng đất nơi
vườn Tao đàn để cất “nhà xưa” với điều kiện khi tôi chết, nhà cho về đô thành
vĩnh viễn và cuộc cắt đất cắm ranh tuỳ nơi Bảng, nên tôi đeo theo là vậy. Không
biết hôm gặp, cô vui bực nào, mà trò truyện với tôi không ngớt. Rất may cho tôi
là khiến thần khẩu thốt ra một câu “nịnh đầm” quá xá, làm cho cô xúc động tâm
tình rồi keo sơn gắn bó từ đây cũng nhờ câu nầy. Cô hỏi nhỏ tôi, từ ngày xa
nhau, sau lúc cô dự đám cưới của tôi và cô Tư Tuyết, con của bà Kính (ông bô
tôi là thông ngôn toà thượng thẩm, một tay chơi nức tiếng thời ấy), và sau nầy
căn phố lầu số 260 đường Richaud (sau là đường Phan Đình Phùng) trở nên cảnh
“Nguyệt tiên cung” của cô v.v…, tôi trả lời một cách rất tự nhiên cho câu cô
hỏi: “Nay cô đã hương phai phấn lạt, còn săn đón cô làm gì?”, tôi khi ấy ngó
ngay mặt cô rồi cúi đầu đáp nhỏ nhẹ: “Thưa cô Ba, tôi không cần biết cô nay ra
thế nào, sa sút đến bực nào tôi không cần biết, trong mắt tôi, trong hồn tôi,
đối với tôi, cô luôn luôn vẫn là người đẹp, tôi không hiểu thành ngữ “khuynh
quốc khuynh thành” là người ra thế nào, tôi chỉ biết cô qua bức ảnh chụp treo
trong tủ kiếng nơi trước nhà nhiếp ảnh “Khánh Ký” năm xưa ở đường Bonard, hình
cô mặc một bộ y phục trắng, che cây dù cũng trắng và đứng thướt tha nhìn ngắm
xa xăm, hại cho tôi chủ nhựt nào dầu trong túi không tiền cũng lội bộ từ trường
Chasseloup ra ngắm dung nhan cho được mới nghe, mặc dầu trời mưa trời gió, và
hại tôi đêm nào như đêm nấy, tiếng rằng cha mẹ cho tôi lên đây ở nội trú để xôi
kinh nấu sử, mà xôi và nấu đâu không thấy, đêm nào như đêm nấy, tôi chỉ mơ mộng
tưởng nhớ hình dung cô!
Lời nói không suy nghĩ mà tựa như sắp đặt trước, khiến nên gây được cảm
tình. Một bữa tôi đang xỏ giày vào chưn, cô bỗng giựt mình mở mắt ngồi nhỏm dậy
mà rằng:
– Anh hãy yên tâm, rồi thong thả tôi sẽ kể lại đời sóng gió của tôi cho
anh viết. Nói thiệt, tôi mê cảm anh nên mới làm như vậy. Nhưng tôi đã suy xét
rồi. Tôi thích chị Năm diễn kịch khéo, nhứt là vai “bà Phán Lợi, mẹ thằng Thân
(Việt Hùng) trong tuồng Đoạn Tuyệt. Tôi đã phá gia cang biết bao nhiêu người!
Tôi không muốn làm khổ cho chị Năm, anh hãy về nói lại: tôi tha cho đó! Thôi,
về hè!
Và nhờ vậy mà có thiên bút ký nầy cất kỹ suốt ba chục năm, nay xin chép
lại đây có lẽ ngày nào tôi ra đi tìm gặp cô Ba, và có gặp lại cũng chẳng chưa
biết, khi ấy sẽ cho đăng báo hoặc sẽ cho in thành tập, tiếp theo tập “Sài Gòn
năm xưa” gọi để bổ túc.
(Anh linh cô nếu còn, xin chứng minh lời nầy.)
Và kể từ hàng nầy, là “Lời tự thuật của cô Ba Trà”:
Anh từng đọc Tiếng Dội. Anh còn để dành được nguyên xấp, anh cứ dở ra
xem: nơi tờ số 15-5-1952, báo ấy có in lại mấy hàng như sau, chính chữ tôi viết
huếch hoác như vầy (chữ tôi xấu lắm, vì tôi nào có được học tới nơi tới chốn!)
Chứng chắc
“Tôi,
Trần Ngọc Trà, tự Cô Ba Trà, bằng lòng cho báo “Tiếng Dội” đăng về cuộc đời của
tôi, từ buổi thiếu thời đến nay, chính tôi thuật cho người đại diện báo “Tiếng
Dội” nghe chuyện của tôi để đăng báo”.
Sài
Gòn, le 9-5-1952. Ký tên: Trần Ngọc Trà”
Như vậy tạm đủ rồi, còn tên cha mẹ và lý lịch tưởng không cần ghi lại
đây, vả lại nói ra không ích gì, chỉ làm đau lòng người nơi chín suối. Năm nay
1952 gặp lại nhau, thì anh đã 48 tuổi, tôi nhỏ hơn sáu tuổi và lớn hơn bà
trước, cô Tư Tuyết ba bốn tuổi, trễ rồi bất thành duyên, hoạ may đổi tình cầm
sắt ra cầm cờ, không chừng được lâu bền hơn, làm bạn này tới đâu hay tới đó như
vậy mà tốt hơn.
Anh cứ yên tâm và vui lòng cứ viết, tôi lần lượt sẽ kể anh nghe cuộc đời
bảy nổi ba chìm của tôi, như một thiên sám hối… Tôi đã kể như vậy cho một ông
không nói tên ra mà đối với anh không xa lạ gì, nhưng với đó là vì miếng cơm
đen cầm thực, khác với anh là vì chút lòng cảm mến chưa phải là “tình” nhưng
cũng gần gần như vậy anh không nên ngần ngại, không ai cướp công ai đâu, cũng
như tôi có quyền thuật lại cho một người thứ ba viết nữa nào có hại gì, vì đây
là bầu tâm sự, tôi vui tôi trút, mạnh ai nấy muốn hốt thì nhào vô của đồng công
chợ, con tôm con cá, tranh giành nhau cái thứ “chim trời cá nước” ấy mà.
Tôi nói sơ cho anh biết, Ba tôi là người kén vợ hơn ai hết thảy. Mà nghĩ
cho cùng, nói ra thì mắc tội với đức sinh thành, chớ đàn ông đều ích kỷ mười
người như một, chỉ biết có mình nào biết có ai. Sáu lần chọn lựa rồi đều đường
ai nấy đi, đến khi gặp má tôi người làng Tân An (Cần Đước), quên nói ba tôi là
người làng Phước Khánh, thuộc quận Cần Giuộc, hai người xứng đôi vừa lứa, mới
sanh ra tôi, mà sanh làm gì để gánh chịu bao nhiêu khổ cực nói ra càng thêm đau
lòng, và chưa biết chừng nào mới dứt. Ban nãy tôi nói đàn ông ích kỷ, vì nhớ
lại tôi nào biết ba tôi có nựng nịu tôi không, chỉ biết khi tôi được lên năm,
ba tôi ghen cho má tôi không một lòng một dạ, đến thổ huyết lâm ly mà thác.
Quan tài vừa liệm, nắp đậy vừa xong, còn để ngờ ngờ giữa nhà, kế ngày sau bà
nội tôi, mẹ của ba tôi, vì quá thương con, bỗng chết theo, và hai cái hòm đặt
song song giữa nhà mới là hệ. Chôn cất vừa xong, bác trai tôi nhẫn tâm gọi mẹ
tôi bồng tôi lại, rồi lột cái mũ mấn không cho tôi đội, rằng “Ba tôi lúc lâm
chung trối lại không nhìn tôi là con” và đành lòng nào bác đuổi mẹ con tôi ra
khỏi nhà, rằng bất xứng dâu con họ Trần. Cơ khổ, có bắt được quả tang đâu mà đề
án tử cho mẹ tôi, khiến cho lúc nào tôi cũng được bà nội cưng, thậm chí khi tôi
biết đứng chựng, bà lấy vạt áo lót trên ván trên gạch trước khi đặt chân tôi
đứng lên trên, vì sợ cát bụi sạn sỏi làm đau chơn Trà, nay cha mất bà nội cũng
nằm xuống, hai nấm mồ cỏ chưa mọc xanh, mẹ tôi bồng tôi lui về quê ngoại, phải
bồng tôi không cũng khá, lại bồng theo một bụng bất mãn cành hông, và từ ấy,
giận ai không biết mà mẹ tôi cứ tôi mà cho đòn, từ củi đòn củi chẻ, tôi đều nếm
đủ thay vì lòng thương con con côi con cút! Chín tuổi, lớn chồng ngồng cái đầu,
mẹ tôi chưa cho tôi đi học. Trẻ lối xóm chiều chiều cắp sách ở trưởng về, cười
nói huyên thuyên mà tôi còn nhớ: khi mẹ vui thì ban bố bánh trái ăn không hết,
khi khắc nổi cơn khùng thì roi vọt đấm đá gần mềm xương với một câu đả đớt mà
cho đến ngày hôm nay tôi chưa hiểu cho tường tận: “Tao đánh mầy cho tiệt nòi
tiệt giống quân “đoản hậu”! Mà ai đoản ai, có ông Trời mà biết? Ba tôi ư? Thì
hãy chớ về dưới ấy sẽ hay! Mẹ tôi ư? Mà sao lại nhè tôi mà cho ăn đòn? Và oán
ai mà để cho tôi chịu dốt? Thành thử tôi nay hư đốn, nào phải tội tại tôi!
Thiếu tình cảm của cha, thiếu yêu thương của mẹ, thiếu hết, thiếu tất cả: không
học không hành, và chỉ được một gia tải duy nhứt của trời cho là sắc đẹp! Mà
đẹp làm chi để vừa mười bốn tuổi tuổi chưa biết gì, mẹ tôi đã đưa tôi vào vòng
tay một quan thầy thuốc người Pháp, nói gả không xong, nói “bán” là phải hơn,
và mười bốn tuổi đầu phải chịu nhiều cơn gió phũ phàng của một người dị tộc,
sau nầy tôi như lá môn, nước xối bao nhiêu đều trơn trợt tuột ngoài da, cũng vì
nạn tảo hôn “bán tôi cho thằng Tây có tiền chỉ mua nhục dục”! Nói chí đáng, ông
nầy, một trai trên ba mươi, cũng có chút động lòng, cho tôi đi học nơi trường
nữ chung lớp với trẻ đầu còn chứa chóp, ở lớp năm, lớp sáu, sớm chiều tụng A B
C và tập đồ mấy hàng chữ quốc ngữ “Bờ A: BA, v.v”. Trong lớp học tôi có hai đứa
cháu, tôi thuộc vai “dì của chúng” mà chúng nào nhìn nhận tôi là thân thuộc
cũng vì tôi nghèo và sớm mồ côi cha. Ngày bà ngoại tôi mất, mẹ của mẹ tôi, thế
mà trong gia đình sai người vô trường lãnh hai đứa kia về chịu tang của bà cố
của chúng, còn tôi, nhớ ơn bà, khi lóng mía cho lén, khi củ khoai giấu giếm
không cho các cháu trai kia biết, nhớ ơn bà, tôi phải bỏ trường mất học hay là
thất học luôn từ đây và tôi phải leo rào về tới quê mẹ thì hòm đã đậy nắp, nào
thấy mặt bà. Lớn lên tôi hoá ra chai đá cõi lòng, vì lúc nhỏ, ai thương cho mà
biết thương lại? Những ai kia từng làm bạn với tôi, xin nhớ cho tôi điều này!
Tử tôi năm tuổi, mẹ tôi giao tôi cho bà ngoại nuôi dưỡng, đến khi tôi
được chín tuổi má tôi mới nhớ rằng có một đứa con, sẵn nay bà ngoại mất, má tôi
mới bắt tôi theo lên Sài Gòn. Quên nói, trong khi bỏ con cho mẹ là bà ngoại tôi
săn sóc, má tôi đầu tắt mặt tối, tảo tần chạy đầu này đầu kia để sinh sống, và
nói ra thêm tủi thẹn, một người còn trẻ và có nhan sắc như má tôi, mà sao nhè
làm bạn, “đụng” một chủ tiệm bán á phiện ở chợ Xóm Chiếu? Đến nước trẻ đẹp mà
“lấy chệc” là cùng đường! Có lẽ một duyên cớ không nói ra, là má tôi thù thâm
xương người cùng một giống dòng “toàn là quân đoản hậu”.
Cũng may má tôi thắng vụ kiện chia gia tài bên Ba tôi được mớ nhắm, nhờ
đó làm vốn liếng nên thôi ở Xóm Chiếu, đem tôi ra ở gần Chợ Bến Thành, đường
d’Espagne, mà trong hẻm nhỏ mút đường gần ga xe lửa Mỹ Tho, chỗ mấy căn nhà lụp
xụp phố huyện Cần, nay còn nhìn được…
Ba tôi mất được năm năm, má tôi mới về một lần viếng mộ chồng, thì lớp
bị trâu bò leo ăn cỏ đạp nhầu, lớp không ai giẫy mã nên núm mồ sụt lì gần bằng
mặt đất. Mười bốn tuổi, tôi vừa trổ mã con gái, chịu tang bà ngoại thì ông
chồng quan ba thầy thuốc Pháp, mãn giao kèo, cút luôn về xứ không một tiếng giã
từ, một đồng một chữ cũng quên cho? Khỏi ở ăn, khỏi nằm chung với chồng ngoại
quốc, về nương náu với mẹ, tưởng chi, chỉ để trở lại lãnh đòn bọng như khi chưa
chồng. Nhưng khỏi bỡ ngỡ lạ lùng trong vòng tay lông lá kia, bù trừ còn sướng.
Lúc ở hẻm d’Espagne, tôi đã biết làm dáng. Có người đặt biệt hiệu lúc nhỏ tôi
bán chả giò, nên thỉnh thoảng tôi còn danh hiệu “Cô Ba chả giò”. Sự thật má tôi
bán đủ thứ hàng theo trên xe lửa chạy đường Sài Gòn ra Phan Thiết lúc ấy đường
xuyên Đông Dương chưa thông thương như hiện giờ. Tôi đã biết làm dáng, nhờ dành
dụm chắt mót từ xu, từ cắc, tôi sắm được một chiếc áo bà ba xuyến đen, khi mặc
lén lúc má đi vắng, hai bên phố ai ai cũng trầm trồ “con chị Tám” nay đã coi
được đến! Lúc ấy tôi thấy hạnh phúc tràn trề, là nài được một đôi guốc “ngù
ngà”. Ngày nay các cô tân thời đi guốc “Phi mã”, guốc cao gót để dễ ẹo bên nầy
ẹo bên kia cho đúng mốt, chớ mốt thời đó là guốc ngù ngà nầy. Nguồn gốc do các
ỷ, các vợ khách giàu trong Chợ Lớn từng qua Hạ châu và Tân Gia Ba mang về theo
kiểu đàn bà Bà lai du” (Malais(e), chà và javanais(e) đề xướng. Guốc vẫn guốc
gỗ vông cho nhẹ, không quai da hòng sợ đứt, chỉ ngại đường trơn trợt, đi guốc
ngù ngà, rủi trật chín thì đau thấu mây xanh, nhưng khi mang vào chơn thấy tăng
vẻ đẹp thì đau cách mấy cũng rán chịu! Ngà nầy tiện trong ngà voi, càng lớn
chột càng sang, và đi lâu năm ngà lên nước thì đẹp hết chỗ nói. Mặc áo xuyến và
diện đôi guốc ngù ngà, là chờ má đi vắng hay má nghỉ, Trà lúc ấu thơ, hạnh phúc
đòi hỏi có bấy nhiêu mà ai biết cho Trà?
Tôi nói nãy giờ cho anh ghi chép, mà quên nói sau khi quan ba thầy
thuốc, ông chồng tạm bợ của tôi về Tây, tôi giúp mẹ tôi đỡ đần công việc chạy
hàng dọn từ toa xe gánh mang về nhà hoặc theo xe ra Phan Thiết tải hàng về cho
má. Đi bán trên xe lửa vui lắm. Tôi không may mắn học ở trường, mà tha hồ học
trên xe, nào tiếng lóng tiếng lái, tiếng éo le, tiếng đôi ba nghĩa. “Lái dúm”
là gì? anh là thầy lái, anh biết chớ? Trà cấm anh nói xuôi lại trước mặt Trà?
Và nhờ học trên xe mà Trà bỏ túi được đôi ba tiếng Hải Nam, sau nầy có dịp sửa
lưng mấy thằng Tàu con bên Xiêm mới sướng? Trà còn nhớ anh bán bánh mì chả lụa
lúc ấy. Sáng sáng, xe bắt đầu lăn bánh là anh bắt đầu bày thúng bánh mì còn
nóng hổi và rổ thịt giò chả lụa chả quế đủ thứ xuống sàn xe. Chẳng lành mà chớ,
anh cũng bày ra cái điếu tre hút thuốc lào lên nước láng bóng. Xe lửa chạy cà
rụp cà tang nghe êm tai buồn ngủ, anh lấy thuốc nhồi vào điếu, bật lửa mồi và
kéo ro ro… Anh kéo một hơi dài, rồi lơ tơ mơ ngả đầu quẹo qua một bên say thuốc
anh ngủ gà ngủ vịt, trong khi ấy bọn đá cá lăn dưa chực sẵn hồi nào, đứa rút
bánh đứa ăn cắp thịt, anh vừa mở mắt thì mọi việc an bài, có ông Trời mà biết.
Thiệt tài tình hết sức, chớ chi Trà học được nghề của chúng thì sau nầy vào
sòng me Trà không thua đậm bao giờ…
Tôi nhớ rành rành như chuyện vừa xảy ra hôm qua hôm kia đây, là bữa đầu
tôi gặp cô Ba trong Đại Thế Giới là lúc tôi đang đeo theo kỹ sư Phạm Kim Bảng
để xin một miếng đất của đô thành, hầu như dựng lên vuông nhà hiện nay tôi đang
ở, còn cô Ba khi ấy gần như thường trực đêm nào như đêm ấy cô vẫn có mặt tại
các sòng me, để canh chừng khi thuận chiều “ké vô vài chén chạy gạo”, hoặc khi
nào các công tử quen xưa hết vốn, cô sẽ chuyển vận lương thảo cho các cậu gỡ
gạc với điều kiện “tiền viện trợ cấp thời” nầy đẻ mỗi ngày là mười phân trăm số
vốn, tỷ dụ cho mượn 2.000 đồng thì mỗi ngày tiền lời là 200, bạc vốn vẫn còn
nguyên, khi trả phải chìa ra đủ 2.000 răng rắc. (Mấy lúc sau đó, khi tôi hay
được cô làm nghề mà tôi cho là quá mạo hiểm và phân tâm với cô rằng cô “không
sợ chúng giựt hay sao?”, cô đã trở lời mấy tiếng cụt ngủn làm cho tôi toát mồ
hôi vì quá thiết thực: “Các cậu bao giờ đi giựt tiền một con đĩ như tôi làm
vầy?”) Tôi thuở nay đâu có ưa cờ bạc và tôi vào Đại Thế Giới hằng bữa để làm
gì?
Chú thích
1 Đây là mật cách nịnh đầm: Họ nhường cô Ba ngồi sát tôi, vì như vậy
cô ngó ngay lên sân khấu, thầy Sáu là anh cả nên ngồi bìa, Trinh và Tỷ là tình
địch đang tranh thủ trái tim nàng đẹp.
2 Mấy năm sau, tôi gặp Ba Lưu, một bạn cố tri quen nhau từ ở Sốc
Trăng, lên đứng đầu phòng cho luật sư Nguyễn Văn Lúc, rồi Đoàn Ý Lưu cho tôi
hay Trà mất đã lâu, chết trong tăm tối, Đạm Tiên không khác. Tôi không có một
nén hương tiễn biệt, nay có chút hương lòng, xin cô nơi chín suối nhận cho.
No comments:
Post a Comment