DI VẬT
Mỗi con người ngày nay mang trong mình một di vật. Với tôi là chiến tranh
và tiểu thuyết. Chiến tranh của suốt tuổi hoa niên không bao giờ chấm dứt và
tiểu thuyết của một thời đại đã biến mất. Không biết từ bao giờ tôi nghiệm ra
tuổi thơ của mình vẫn chưa chấm dứt. Tiếng súng AK trong đêm tối Tết Mậu Thân
còn hộc lên như nhát búa. Tiếng súng in sâu vào tâm trí mà tôi không hay.
Lần đầu tiên tôi nghe tiếng súng sát cạnh nhà. Cả ánh lửa của trái hoả
tiễn vút qua cửa sổ rồi nổ ầm rung chuyển trước khi khói bốc lên cao. Căn phòng
tôi ở lầu hai, trông xuống xóm Chùa. Mẹ sai chị Ni tháo chấn song sắt của ô cửa
sổ trông sang hãng Sáo công ty. Mẹ dặn nếu Việt Cộng đập cửa, u dẫn các em chui
qua cửa sổ, lần theo mái ngói xuống nhà ông bà Văn Chung. U Đào vâng dạ. Tròng
mắt u đầy kinh hãi. Thầy vắng nhà, xuống Long An khai trương rạp hát. Nhà không
đàn ông nhưng mẹ vẫn bình tĩnh thu xếp mọi thứ. Một túi quần áo, một túi gạo và
tư trang gói trong khăn lụa. Mẹ sắp xếp với kinh nghiệm tản cư từ Hà Nội. Câu chuyện
tản cư chúng tôi nghe không biết bao nhiêu lần, cả nhà chạy về quê nội, rồi ông
bị đấu tố, trói giật cánh khuỷu ở hàng rào ngôi nhà bây giờ là uỷ ban tỉnh Vĩnh
Phú. Thầy và chú Ích bị trói quỳ ở giếng, nhảy dù Tây bất ngờ nhảy xuống Phú
Thọ, bắn nhau trong vườn và bà nội lạc đạn, chết trên đường tải thương. Dường
như từ ngày đó, ông im lặng. Từ ngày đó thầy và mẹ không còn ủng hộ Việt Minh.
U có ủng hộ Việt Minh không? U đang đứng run rẩy, mãi u mới thưa bẩm: Thưa mợ, thế còn đồ đạc trong nhà ai trông? Mợ cho con ở lại trông chừng. Mẹ gạt: Bổn phận u là trông các em. Nhà này bỏ của chạy lấy người, u quên Phú Thọ rồi à.
U sắp sụt sùi. U từng chứng kiến bao cảnh gia đình tôi chạy loạn. Ngày
xưa còn con gái vào ở cho gia đình ông, u có thương bà nội như thương mẹ bây
giờ, u nghĩ gì khi vốc đất lấp mả hoang cho bà ven vệ đường? Chắc u ít kỷ niệm
với đất Quảng của u bằng đất Bắc. Ít gắn bó với quê u như gắn bó với gia đình
tôi. U lưu lạc phương nào làm sao từ đất Quảng Ngãi lại ra đến Phú Thọ, rồi
theo thầy mẹ về thành, rồi di cư vào Nam. Sao u không theo Việt Minh mà theo về
vùng tạm chiếm? Họ đấu tranh cho giai cấp của u mà. Nhiều năm sau này tôi hỏi:
Sao gọi Sàigòn là vùng tạm chiếm? Phải gọi Lộc Ninh, Phước Long là vùng tạm
chiếm mới đúng. U trả lời u chả biết. Và tôi cũng không biết. Nhưng năm 68 tôi
hãy còn bé, tôi chưa biết đặt những câu hỏi khó như vậy. Tôi chưa biết chuyện
gì xảy ra. Đất nước đang chiến tranh, tôi không hề biết. Mai Thảo đang viết
tiểu thuyết, tôi không hay. Tôi chỉ biết đến u Đào và con đường từ nhà ra đến
chợ Tân Định. Mỗi sáng u cầm tay giắt tôi băng qua đường, đi về hướng nhà thờ.
Rồi u mua cho tôi cây kem, khi bịch bánh cay, trước khi u mỉm cười đứng ngó tôi
bước chân qua cánh cổng sắt có các dì phước hung ác đứng canh. U Đào, u là ai?
Cho đến bây giờ, hai mươi năm sau khi viết truyện Gia Phả, tự phong mình làm
Thiếu Đế, vị hoàng đế cuối cùng của triều Trần, cho nhân vật u Đào đi ở cho tộc
Trần, nuôi dưỡng Linh từ quốc mẫu Trần Thị, tôi vẫn chưa biết u là ai. Tên
tuổi, làng quê, chánh quán của u, gia cảnh của u ra sao, u còn trinh hay không?
Tôi chỉ biết u sống với gia đình mình từ lúc thầy còn trai trẻ, mẹ chưa về làm
dâu, chúng tôi sinh nở trên tay u, trên hai cánh tay ẵm bồng của u, cho đến
buổi tối Mậu Thân u tình nguyện ở lại giữ nhà.
Chúng tôi hét: Không, u đi với tụi con, u không được ở lại!
Chúng tôi níu lấy u làm như đã sắp chia cách.
Mẹ gắt: Im! Tiếng chân người đi lạo xạo ngoài cửa.
Tiếng đập cửa ở các nhà chung quanh. Mẹ thì thào: Ni lên phòng ông tắt
cây đèn trần. Nhanh. Chị Ni quýnh quáng trong lúc mẹ tắt cây đèn nhỏ thắp trên
bàn thờ. Chúng tôi cứng người vì sợ hãi, bàn chân tôi lạnh như nước đá. Tôi lại
bấu lấy u, đeo cứng lấy u không cho u nhúc nhích. Tôi chưa hình dung thế nào là
Việt Cộng nhưng biết mẹ rất sợ những con người ngoài cửa. Tiếng đập cửa mỗi lúc
một lớn. Tiếng quát tháo bắt mở cửa, lẫn tiếng gia đình Pharmacie Dung khẩn
khoản. Pharmacie Dung sát vách nhà tôi. Mẹ bảo u cho các em chui qua cửa sổ.
Mau. U Đào bắt đầu run. Chị cả giục Vũ nhanh lên! Tôi rướn người, uốn lưng luồn
giữa hai chấn song. Bên trên trời đầy sao. Cả một vòm trời đầy sao bất chợt lấp
lánh trên nền tím lạ thường. Phải sau này tôi mới hiểu vẻ đẹp của sự bất trắc.
Nền trời khuya ửng những đám cháy hoà với các giải mây đen làm thành màu tím.
Mãi sau này tôi mới nghi hoặc những tín hiệu của trời đất, các đốm sao muốn báo
hiệu nguy biến, như trong chuyến hải trình vượt biên, giữa đêm tôi chợt khám
phá biển chớp sao trước khi tàu chìm. Nhưng năm 68 tôi còn bé, lần đầu tiên
trông thấy nền trời khuya không phản chiếu ánh điện. Gió mát từ kênh Nhiêu Lộc
đưa tiếng còi hụ ở xa.
– Vũ nhanh lên! Chị cả thúc giục.
Tiếng súng nổ lúc đó. Tiếng súng nổ ran ngay trước cửa nhà. Tiếng súng
nổ mạnh lắm. Lính Mỹ trên binh đinh Yên Đỗ đối diện bắn xuống mặt đường Hai Bà
Trưng. Tôi nghe tiếng đạn chọc trên lớp nhựa. Tiếng đạn nạo lòng đất. Tiếng la
hét, tiếng chạy huỳnh huỵch. Mẹ hốt hoảng lôi tuột tôi xuống. Cả nhà núp dưới
bàn thờ. Lúc này tiếng súng liên tục. Tiếng súng đập vào hai lớp cửa sắt rung
như bị nện búa. Tất cả đồ đạc lay chuyển. Không phải chúng tự chuyển động mà
mỗi khi bích kích pháo rớt, tiếng ầm như sát bên cạnh, cả nhà lại nhốn nháo
chạy từ vách tường bên này sang vách tường bên kia, hất đổ lọ bình, xô lệch bàn
ghế.
Tiếng súng át tất cả, nổ từng tràng, từng chập rồi đứt quãng, rồi lại
râm ran. Chúng tôi theo dõi gương mặt mẹ để đoán chừng an nguy. Gương mặt mẹ
căng thẳng tột độ. Mẹ cũng đang theo dõi tiếng súng với hy vọng lính Mỹ tiếp
tục bắn trả. Gương mặt mẹ khi ấy hẳn giống gương mặt mẹ ở Phú Thọ. Như mẹ kể
lại. Mẹ đã khẩn cầu rồi vui sướng siết bao khi viên quan ba Tây chạy đến. Chậm
một phút nữa là thầy và ông nội các con bị họ giết. Họ tra khảo để khảo của.
Gương mặt mẹ lo lắng pha lẫn hy vọng. Hy vọng lính Mỹ tiếp tục chống trả. Sau
này tất cả chị em chúng tôi đều cùng tự hỏi: Vì sao dân tộc chống Pháp giành
độc lập mà gia đình chúng tôi lại mừng rỡ khi lính Tây nhảy dù xuống? Vì sao
tướng Salan khi ném 3 tiểu đoàn Nhảy dù xuống Phủ Đoan, Đoan Hùng, Phú Thọ
trong cuộc hành binh Lorraine đã vô tình cứu sống gia đình tôi? Vì sao Việt
Minh muốn thắt cổ thầy, muốn hành quyết ông? Gia đình chúng tôi không làm việc
cho Tây, mà yêu đất nước này. Ông không phải là địa chủ, nhà không có đất. Ông
thừa kế hiệu thuốc Bắc của cố, mở thêm gian bán vải, ông chú có tiệm bánh trung
thu. Có gì giàu sang đâu mà phải tội. Có cái gì đó trái ngược đến phi lý. Vì
những con người giành độc lập là những con người tàn nhẫn, triệt hết tất cả
những ai khác biệt. Chú Minh về sau giải thích như vậy. Nhưng vì sao ông cố là
người Trung Hoa, gia đình tôi là một gia đình Trung Hoa chạy loạn sang Việt Nam
lại can dự vào cuộc chiến này, mà thầy đứng hẳn về phía miền Nam, hy vọng Bắc
tiến? Tôi không hiểu.
Năm 68 tôi chưa biết thắc mắc. Tôi chỉ là đứa bé kinh sợ mỗi khi tiếng
đạn chọc vào lớp cửa sắt. Lớp sắt rung lên như tiếng nấc trong lòng tôi cố kềm
hãm. Tôi chỉ biết thúc đầu gối vào mạn sườn u và ôm u chặt cứng. Tiếng đạn sẽ
mãi mãi, vĩnh viễn, không bao giờ biến mất. Kể cả sau Mậu Thân. Chúng chốt xoáy
trong trí óc tôi một đầu đạn vô hình. Chúng chọc thủng tấm màn lịch sử buộc
phải tự tìm hiểu.
Tôi nhắm chặt mắt, bưng tai, dúi mặt vào ngực u tìm sự bảo bọc, tìm cả
sự êm ái mà chỉ có u mới có thể đem đến cho tôi vì mẹ luôn cứng rắn. Đến khi u
bế xốc tôi lên, tôi mở mắt nhìn thấy lửa cháy cuồn cuộn phừng phừng trên các
dẫy nhà phía sau đường Đặng Tất trong xóm Chùa. Cháy, cháy, mợ ơi. Cháy. U hốt
hoảng. Mẹ quát: U đưa các em xuống lầu. Mau. Ni hứng nước vào các chậu, nếu lửa
lan đến nhà mình thì dội. Mẹ sắp xếp, phân bố công việc cho tất cả mọi người.
K, anh cả xách túi áo quần. Chị N, chị cả kéo bịch gạo. U bế tôi xuống bếp. Sân
bếp tối om. Tiếng ống nước chảy chị Ni đang hứng vào chậu kêu như thác.
Đến khi súng ngớt, chị Ni thì thầm: Họ rút đi rồi. May lính Mỹ đóng
trước nhà mình. Tôi nhớ đến toà binh đinh quét vôi trắng, kế bảo sanh viện
Lương Kim Vi, hằng ngày có những người lính cao lớn, ngón tay to bằng quả chuối
hay ngoắc vẫy lũ trẻ chơi đánh đáo trong xóm, thảy những phong kẹo cao su. Thầy
cấm không cho tôi lượm và cấm lai vãng đến gần. Toà binh đinh đồ sộ trước cửa,
chỉ cần tôi lên lầu ba là nhìn thấy, ngay bên kia đường, trên sân thượng có
chất bao cát. Mấy người lính gác hay đi qua đi lại trên nóc sân thượng hút
thuốc. Tôi nhớ người lính da đen có đôi mắt lồi trắng dã mà chúng tôi gọi là
ông kẹ. Tôi tưởng tượng ông kẹ đang bắn nhau với Việt Cộng. Tôi tưởng tượng chú
Hải, chú Diệp, chú Các, chú Xá đang bắn nhau với Việt Cộng. Thầy ở đâu? Tôi nhớ
thầy da diết. Tôi thèm được thầy hôn vào má, những cọng râu cứng của thầy làm tôi
rùn mình. Tôi chưa biết lo lắng, nhưng tôi nhớ thầy, loáng thoáng hiểu thầy gặp
nguy hiểm, tôi đọc nhẩm bài kinh Kính Mừng mà các sơ dạy trong trường để cầu
nguyện cho thầy. Nhưng tôi chỉ đọc được mấy câu Kính mừng María đầy ơn phước,
đức chúa trời ở cùng bà… rồi thiếp vào giấc ngủ. Trong giấc ngủ là một quãng
vắng bình yên mà trí nhớ tôi không lưu trữ.
Sáng hôm sau tôi thức giấc dưới chân bàn thờ Phật, bức hình ông vẫn hiền
từ bên cạnh hình bà nội chết trẻ. Tôi nằm giữa những cánh mai vàng lấm tấm rụng
trên đất. Cành mai sáng mùng một còn vàng hoe bây giờ đã sớm rụng. Mùi nhang
ngào ngạt. Mẹ đang khấn vái trước bàn thờ vẫn còn đầy hoa quả. Đĩa chôm chôm.
Đĩa soài cát. Đĩa nhãn mọng. Quả dưa hấu to tướng và bốn cặp bánh chưng của cô
Cắm gói. Tôi kêu đói. U nói để u đi chiên bánh chưng. Cả nhà túm tụm ở tầng
thờ. Tôi biết đêm qua u Đào bế tôi lên trong giấc ngủ. Tôi dụi mắt nghe chị Ni
nói đặc công nằm vùng uýnh binh đinh Mỹ thua rồi. Chúng tôi chạy ra cửa. Mẹ la:
U không cho các em ra ngoài. U cản. Chúng tôi tiu nghỉu đứng sau hai lớp cửa
sắt kín bưng. Ngôi nhà thiếu ánh sáng âm u. Trong bóng tối yên lặng tôi đếm
những lỗ thủng trên tấm sắt, nắng rọi qua như những ống hơi ai luồn qua cửa,
những ống hơi sáng trong vơ vẩn bụi bay theo đường ống. Tôi lấy tay chận ánh
sáng, đưa qua đưa lại trước lỗ thủng trước khi áp sát vào lỗ sắt rồi xoè ra xem
chiến tranh đã in lên bàn tay mình chưa. Bàn tay tôi trắng trẻo không dấu vết.
Chiến tranh vẫn còn phía bên kia đường. Tôi an tâm. K đang châu mắt vào một lỗ
thủng. K vừa nhìn vừa nói có mấy xác chết trước hiệu phở Bình. Tôi cũng châu
mắt vào xem. Qua lỗ thủng, trên mặt đường một xác đàn ông tênh hênh không thấy
mặt. Một xác khác nằm úp tay quặp dưới bụng. Một xác nữa ruột đổ ra mặt đường.
Chung quanh có lớp sẫm sền sệt. Không thấy súng, chỉ có một cái khăn ca rô sọc
ngang sọc dọc vất lây lất gần nắp cống. Tôi cố ngước nhìn lên binh đinh Mỹ,
nhưng mấy cái lỗ đạn quá thấp, quỳ gối cũng không nhìn thấy, chỉ thấy cái bục
gác trống không.
Đến trưa nhà ông Thanh Tùng chạy sang đập cửa nói đánh lớn ở kho quân
cụ, bộ tư lệnh hải quân bị vây rồi. Mẹ không cho mở cửa. Cô Ốn điện thoại báo
tin chú Ốn kẹt ở cổng số 4 bộ Tổng Tham Mưu chưa biết sống chết. Chú Sâm bị bắn
chết ở Tổng Nha Cảnh Sát. Chú Diệp, chú Các, chú Hải ứng chiến không có tin
tức. Việt Cộng đã vào Sàigòn. Chú Hênh từ dưới Chợ Lớn điện tiếp: Chị Bảo, Pá
em sang với cô Cắm bị kẹt ở cầu chữ Y rồi, đánh lớn lắm, tụi nó về nhiều lắm.
Chế Màn hỏi anh Pảo có tin tức gì không?
Vẫn chưa có tin của thầy. Mẹ cũng bấn, cố giữ bình tĩnh, thắp thêm
nhang, sai u đong thêm túi gạo. Mẹ dặn đong ít thôi, không vác nặng, u còn phải
trông các em. Rồi mẹ gọi lại cho cô Sâm chia buồn, cô Sâm là nữ quân nhân, chú
Sâm vừa biệt phái về Tổng Nha mấy hôm trước Tết. Nhưng đường dây điện thoại bị
đứt. Chị N bật truyền hình, đài truyền hình không phát hình. Mẹ bảo mở radio,
các bản nhạc hùng trầm bổng. Chị N nghĩ Việt Cộng chiếm đài phát thanh rồi. Mẹ
bảo Chưa. Nếu đài phát thanh bị chiếm họ đã phát lệnh hiệu triệu. K hỏi nhưng
nếu chưa bị chiếm sao không có tin tức. Mẹ không biết. Mẹ muốn gọi cho cô Út,
cô Cắm, thím Hải, hỏi thăm các chú được lệnh trình diện đơn vị, nhưng đường
giây vẫn bị cắt. Súng lúc này không còn nổ phía chùa Vĩnh Nghiêm mà âm âm khu
cầu Sắt. Chị em chúng tôi rúc xuống bếp. U lại chiên bánh chưng. U khuyên Mợ ăn
lấy sức. Mẹ đụng đũa chiếu lệ, than thở: Không biết ông Bảo bây giờ ra sao. U
an ủi mẹ: Cậu mợ ở hiền, trời Phật độ. Tuy nói vậy, nhưng u cũng rươm rướm nước
mắt. Chị em chúng tôi ai cũng nhớ thầy. Sợ thầy gặp nạn. Sau Tết Mậu Thân thầy
kể, chuyến xe đò của thầy đi từ Long An lên Sàigòn bị Việt Cộng chận. Việt Cộng
của tỉnh đội Tân An pha đèn bấm giữa mặt thầy, may mắn xe ở đồn quân cảnh chạy
ngang, Việt Cộng xả súng bắn rồi bỏ chạy, thầy nhảy xuống mương, đến khi liên
đoàn Bảo An đi qua được cứu. Tội chết mất ông trung sĩ quân cảnh. Lần nào kể
chuyện, thầy cũng nhắc đến ông trung sĩ thế mạng, nếu không có ông chắc thầy đã
bị bắt đi.
Lúc này bích kích pháo rơi xuống phía Gò Vấp liên tục. Lửa cháy ở phía
Hàng Xanh có cuộn. Tiếng hoả tiễn rơi nghe rất lạ. Ban đầu giống như có tiếng
sáo, rồi tiếng gió hú, tiếng nổ làm mặt đất rung, cuối cùng mới là tiếng rít
xoáy. Gia đình ông Thanh Tùng di tản, chạy ngang nhà đập cửa: Tụi nó vào tới
Tân Sơn Nhứt, Tổng Tham Mưu rồi, chạy đi. Ông bà Tuấn Kiệt cũng chạy qua nhà
gọi: Bà Bảo chạy đi, Việt Cộng chiếm trại Phi Long, Lăng Cha Cả rồi. Mẹ bất đầu
mất điềm tĩnh. Gia đình ông bà bán hàng sơn cũng chạy, chỉ có hiệu bún bò Tân
Thanh khuyên mọi người ở lại. Mẹ hối: U đã cất đồ của cụ chưa. U hấp tấp, vừa
bế tôi vừa cho các di vật trên bàn thờ vào bao. Bốn tấm ảnh của cụ cố, ông nội,
bà nội, chị Zính. U với tay lấy cái tráp, bên trong có một cuốn vở ghi gia phả,
vài cặp kính của những người đã khuất, chiếc bậc lửa đốt dầu hôi bằng nhôm của
ông và một ve rượu đế. Tôi nhìn u túm tất cả lại, kỹ lưỡng, tuy gấp gáp mà u
vẫn gói thận trọng sợ vỡ khung ảnh, làm như u sợ ông la. Tôi biết cái tráp.
Nhiều lần tò mò mở xem, tôi hỏi Tại sao nhà mình giữ ve rượu. Thầy nói ve rượu
là di vật, không được vất. Cô Cắm nói ve rượu ông nội cháu uống dở khi chết. Ve
rượu đem từ ngoài Bắc, ông nội cháu đi đâu cũng giắt theo mình. Tôi vặn nắp
chai. Chiếc nắp thiếc đã rỉ, đáy ve cạn khô, nhưng hơi rượu cay đến chóng mặt.
Chiếc bậc lửa bằng nhôm có khảm mấy chữ Tàu, bên dưới khắc 1920. Bây giờ Sàigòn
còn chiếc bậc lửa nào chạy dầu hôi hay không? Cuốn gia phả viết bằng ba thứ chữ
Hoa, Pháp, Việt. Tôi chỉ đọc được phần cuối tiếng Việt, do ông chú chép: Cố tên
Lưu Kim Nhật, ông tên Lưu Phú Chương, ông chú tên Lưu Phú Quý, thầy Lưu Linh
Bảo. Sao phần cháu không ghi gì. Cô Cắm cười ông chú chừa trang cho cháu sau
này viết. Cái tráp chỉ là một hộp bánh biscuit. Tôi nhìn u bọc thêm lớp gấm rồi
thắt bao vải. Mẹ gọi U ơi nhanh lên. Giọng K sốt ruột, u ơi người ta đi hết
rồi. N đâu? Ni lên phòng xem N đâu? Chị N xuất hiện. Chị mặc đầm trắng, nón
trắng, giày trắng, ví đầm, bước xuống cầu thang. Con xong rồi mẹ. Chị nhoẽn
cười. Cô đi thay đồ ngay cho tôi. Mẹ gắt. Chị phụng phịu. Chị là hoa khôi Thiên
Phước, chị tâm niệm phải luôn xinh đẹp trong mọi hoàn cảnh. Tôi hỏi u, con có
phải thay đồ không u. U vuốt đầu: Cậu mặc như vậy được, để u mang tất cho cậu.
U chòng bít tất cho tôi, trong lúc tôi lại hỏi: Con mặc pyjama ra đường hở u? U
cười pyjama của cậu hách lắm.
Súng bất chợt nổ ác liệt. Súng bắn liên thanh miệt dưới Chi Lăng rồi lan ra cả
phía cầu Bông. Chị Ni chạy thục mạng từ cửa vào hốt hoảng: Cô ơi lính Mỹ rút
rồi. Đánh tới dưới chân cầu rồi. Mẹ quyết định chạy theo lính Mỹ. Nhưng lính Mỹ
đã biến mất. Toà binh đinh bỏ không. Trống hoác. Không còn ai trên tầng thượng
chỉ còn trơ dẫy bao cát. Cánh cửa sắt mở toang phơi bày mặt đường ngổn ngang ba
cái xác vẫn nằm đó, cạnh đoàn người chạy loạn từ bên kia Phú Nhuận băng qua cầu
Kiệu tràn xuống Hai Bà Trưng. Ánh sáng sáng trưng. Ánh sáng đến nhức mắt. Chiến
tranh phơi bày tất cả dữ dằn. Những sợi dây điện đứt, mấy chiếc xe hơi kính bể
nát, một tấm biển quảng cáo thuốc lá Mélia thủng lỗ chỗ. Chúng tôi đứng líu ríu
nép bên mẹ và u Đào. Ánh sáng nhức mắt vì chúng tôi ở trong bóng mờ quá lâu. Nhưng
sau này tôi vẫn muốn nghĩ chính hình ảnh thật của chiến tranh làm chúng tôi
nhức mắt chứ không phải ánh nắng. Chiến tranh làm đau đớn đôi mắt của người
Việt, chứ không phải mặt trời. Sau này tôi nghĩ vậy. Khi ấy, K để ý lá cờ vàng
ba sọc treo trước nhà sáng mùng một bị ai giật mất. Chị N thắc mắc anh Trình
bên Pharmacie Dung có bị Việt Cộng bắt hay không. Sao cửa sắt bên đó im lìm hay
họ bị Việt Cộng dẫn đi hết rồi. Mẹ hối chúng tôi nhập vào dòng người. Mẹ dặn: U
và Ni nắm tay các em không được để lạc. Trường hợp lạc đưa các em đến dưỡng
đường của bác sĩ Nguyễn Duy Tài trên đường Duy Tân, không được đến đâu khác.
Nói là gia đình bà Bảo Lợi thầu cung cấp ở Vũng Tàu lúc trước. U nhớ không? U
lắp bắp nhưng mẹ đã bắt u nắm chắc lấy tay tôi rồi hối cả nhà chạy theo đoàn
người. Tôi bỡ ngỡ nhìn đường phố tôi vẫn đi học mỗi sáng. Mới hôm qua xác pháo
còn đỏ thẫm. Mới hôm qua tôi đứng bịt tai xem K châm pháo. Pháo nổ ròn rã, ròn
tan. Pháo đì đùng. Tôi say mùi pháo thơm ngát, túi ngập phong bao lì xì. Bây
giờ đại lộ Hai Bà Trưng rách nát. Tôi nhìn hiệu thuốc cam hàng Bạc, hiệu uốn
tóc Tân Hồng Kông, tiệm Hải Ký, tiệm bánh cuốn Thanh Xuân, tiệm kem Ngọc Lan,
rạp hát Kinh Thành, tất cả hiện ra, tơi tả. Tất cả dị hợm đến kỳ dị. Mấy xe mì
ngả chỏng chơ, sạp bánh cuốn bị ai lôi ra lề đường, hiệu ảnh Chí Mỹ bể kính,
các tấm phông vẽ đoàn cải lương Dạ Lý Hương rách loang lổ, xe nước mía đầy vết
đạn. Bảo sanh viện Lương Kim Vi chật cứng người. Rồi tôi không thấy gì nữa.
Người lớn chen lấn tứ phía. Những thân người to lớn húc đẩy vây lấy chị em
chúng tôi. Tôi nghe tiếng u Đào van vỉ, van xin mọi người đừng dẫm lên chúng
tôi. Ông ơi cho các cháu đi qua. Nhưng u cũng bị lấn. Cuối cùng u cõng tôi lên
lưng, một tay xách túi gạo, u đeo bao di vật quanh cổ. Trên lưng u, tôi thấy từng
cuộn khói đen bốc lên từ phía rạp Kinh Đô. Đoàn người đông vô kể, bồng bế, gồng
gánh, khuân vác, đi như chạy. Chập chập súng nổ từng tràng lớn. Tiếng súng lớn
súng nhỏ lẫn lộn. Mỗi chập như vậy, mọi người co rúm lại, ngồi thụp xuống. Sau
tiếng nổ lớn, là những tiếng hô hoán: Hoả tiễn 122 ly rớt trúng rạp Văn Hoa
cháy rồi. Cháy ở Đa Kao. Việt Cộng đột kích trại Hoàng Hoa Thám. Trực thăng bay
vần vũ về phía Thị Nghè. Một người nói Đi theo hướng trực thăng bên mình. Người
khác chửi Đang đánh ở Thị Nghè, đi về hướng đó cho chết hả. Tiếng trẻ nít la
thét, tất cả hỗn độn.
Súng nổ chát chúa. Đám đông lại rú lên nhốn nháo.Tôi bấu cứng lấy u vì
sợ. Đột ngột từ đầu đoàn chạy loạn phát lên tiếng kêu mừng rỡ: Lính Cộng Hoà!
Lính Cộng Hoà!
Tôi thấy mẹ chảy nước mắt. Tôi thấy u chảy nước mắt. Tôi thấy chị Ni mắt
đỏ hoe và không hiểu vì sao anh em chúng tôi cũng khóc. Vì sự xúc động của
người lớn. Tôi không rõ, nhưng bây giờ tôi hiểu, tôi khóc vì mẹ và u khóc. Vì
những giọt nước mắt của mẹ mang những giọt nước mắt cho tôi. Vì nỗi lo của mẹ
mang nỗi lo cho tôi. Vì niềm hân hoan của mẹ giành cho tôi. Vì u thương gia
đình tôi và vì u đang khóc cho gia đình tôi may mắn. U nức nở Sống rồi mợ ơi.
Sống rồi mợ ơi. Mẹ gật đầu Nhà mình sống rồi. Các con nín đi, nhà mình sống
rồi. Chúng tôi vẫn khóc trong mừng rỡ. Mẹ bảo nín nhưng mẹ vẫn ứa nước mắt. Tôi
vừa thút thít vừa mở lớn mắt. Những người lính Biệt Động Quân đội mũ sắt vẽ
hình đầu cọp vàng bước hàng một từ hướng nghĩa địa Mạc Đỉnh Chi tiến xuống. Một
đại uý đi đầu không ngớt khua tay: Đồng bào yên tâm, đồng bào yên tâm, Việt
Cộng đã bị đánh bật ra khỏi quận Nhất. Tiểu đoàn chúng tôi xuống tăng cường
quận Phú Nhuận. Đồng bào cứ tiến về phía trước, tiếp tục tiến về phía trước, sẽ
gặp trạm y tế cứu trợ. Đừng chen lấn. Chính quyền quốc gia sẽ đánh bật Cộng Sản
ra khỏi Sàigòn. Đồng bào yên tâm, đồng bào yên tâm…
Một người lính Biệt Động Quân trèo lên cột đèn tháo cờ Mặt Trận Giải
Phóng. Tất cả mọi người vẫn chảy nước mắt. Khóc cho tuôn hết những sợ hãi. Đại
uý Hùng. Tôi còn nhớ bảng tên ông trên nắp áo. Ông đi qua trước mặt tôi, ông
không ngớt lập đi lập lại: Đồng bào đi lên phía trước, có sữa, có thuốc men, có
quân cảnh bảo vệ… Tôi nhìn ông đăm đăm. Sau này tôi biết, chiến tranh đã chụp
bắt tôi từ trận Mậu Thân. Mặc dù tôi chỉ là một đứa bé, chiến tranh không tha
thứ. Tôi biết mãi mãi chiến tranh sẽ chế ngự linh hồn mình, tàn phá huỷ diệt
tâm tính mình, nhưng tôi cũng biết, một cách tiềm ẩn, chính chiến tranh
trong buổi sáng ngày hôm ấy, buổi sáng mùng hai Tết Mậu Thân, đã định hình, đã
dạy cho tôi biết phân biệt những khác biệt trong chiến tranh. Có những
người lính giết hại, thủ tiêu, đập đầu, như sẽ diễn ra ngoài Huế, và có
những người lính mà sự hiện diện đồng nghĩa với sự sống. Tôi mang những người
lính này trong lòng như một di vật.
Chúng tôi an táng chú Sâm ở Bắc Việt Nghĩa Trang, trưa mùng bảy Tết.
Trần Vũ
304Đen – llttm - ovv
No comments:
Post a Comment