Những Tờ Lịch Cũ
Tờ lịch đầu năm rớt
hững hờ
Mới hay năm tháng đã
thay mùa
(Thanh Nam)
Khi còn ở quê nhà, mỗi năm tôi đều mua
một cuốn lịch để bàn, loại lịch xé mỗi ngày một tờ, không chỉ mua riêng cho tôi
mà còn cho tất cả các bàn làm việc trong hãng Thông Tấn AP. Tờ lịch xé ra ghim
vào một miếng gỗ có cái cây sắt nhọn để ngay bên cạnh cuốn lịch.
Hết năm, những ký giả theo truyền thống của
Mỹ, thích đứng ở cửa sổ văn phòng, từ từng lầu thứ tư của Building Eden
vào đúng ngày 30 cuối năm dương lịch, thi nhau thả những tờ giấy ghi ngày tháng
cũ bay như bươm bướm xuống mặt đường. Tôi rất thích truyền thống này. Bao giờ
tôi cũng đợi làm người sau cùng thả xuống, để không phải tranh chỗ với ai. Tôi
thích nhìn tháng ngày của tôi bay xuống riêng một mình, không lẫn vào tháng
ngày của người khác.
Có tờ bay thật là xa, nếu gặp gió có
thể bay qua tới rạp Rex bên kia, cách cả hai con đường và cái công viên nhỏ ở
giữa; có nhiều tờ vướng lại trên những cành me, của cây me bên dưới cửa sổ; có
tờ đáp trên nóc một chiếc taxi đang đậu gần đó, hoặc rơi ngay vào lòng một
chiếc xích-lô vừa tấp vào lề; có tờ rơi vào những gánh hàng rong đi ngang hay
rơi trên vai một người vừa đi tới, như bướm đậu rất tình cờ. Khi tất cả đã rơi
xuống thì mặt đường đầy những tờ lịch trắng bằng lòng bàn tay với những con số
in trên đó, đôi khi còn có cả những hàng chữ ghi xuống của các ký giả, của các
nhân viên dùng lịch nữa.Thả thời gian đi cũng có nghĩa là thả theo cả công việc
của một năm qua.
Rơi như thế nào, thì từ trên
khung cửa sổ cao ngó xuống, tôi đều thấy đẹp vô cùng. Những cánh bướm thời gian
đang quay vòng luân vũ. Lúc đó, tôi còn trẻ nên chưa biết tiếc thời gian, chỉ
thấy mang mang buồn vui lẫn lộn giữa cái không khí thay đổi của vạn vật trong
đất trời.
Tuổi trẻ, nhìn ngày tháng cũ bay bay
trong không gian thấy lòng mình lạ lắm. Tiếc ngày qua thì ít, nhưng mong ngày
mới đến với tất cả hân hoan. Cuối năm dương lịch, tức là sửa soạn vào Tết âm
lịch. Tết với bao nôn nao của tuổi trẻ, tuổi đang yêu đương mơ mộng. Trong thời
chiến, biết bao người con gái mong đợi Tết đến, người yêu trong quân ngũ sẽ
được nghỉ phép về ăn Tết. Sự trở về đó mang bao nhiêu thương mến!
Một điều gì đó có tên là hạnh phúc đón
chờ mình trong những ngày mới đang đi tới.
Những năm tháng đó không bao giờ còn
tìm lại được nữa.
Bốn mươi năm đã đi qua. Tôi bây giờ
đứng đây, nhớ lại ngày xụp đổ miền Nam vẫn tưởng như một cơn mộng dữ. Trời đất
mới vào tháng 3 âm lịch. Nhà nông mới bắt đầu xới đất trồng đậu, trồng cà. Cả
một chuỗi ngày tháng xếp đặt cho mọi công việc trước mặt. Người dân miền Nam
cần cù như những con ong bắt đầu làm mật.
Chúng ta tất cả, bỗng nhiên phải
đối mặt với định mệnh nghiệp ngã của đất nước. Chúng ta tan tác như chưa từng
bao giờ tan tác như thế. Người ở núi chạy xuống đồng bằng, người ở đồng bằng
chạy ra biển. Cha mẹ mất con, vợ mất chồng. Tướng mất quân, quân mất dân. Một
cơn đại hồng thủy lửa và máu nhiều hơn nước.
Kim đồng hồ đứng lại. Thời gian ngừng
trôi. Hàng ngàn, hàng vạn cái chết tức tưởi không ai ghi rõ ngày giờ.
Tờ lịch ngày thứ Tư, 30 tháng 4 năm
1975 đã đứng lại trong trái tim của tất cả con dân Việt từ Nam Quan cho đến Cà
Mau.
Chỉ có sự khác biệt, mỗi người Việt đã
giữ lại ngày 30/4 đó trong tim họ như thế nào.
Chắc chắn cái ký ức nạm vàng của kẻ này
đã là ký ức máu và nước mắt của người kia. Điều đáng tủi buồn, cả hai người đó
cùng là người Việt Nam.
Thế mà, bốn mươi cái Tết đã đi
qua rồi đấy!
Trong mấy tháng đầu tiên ở Mỹ, có một
lần tôi tìm được ở garage sale một cái đĩa sứ in nguyên năm lịch của năm
1975. Tôi đã mua đem về treo trong nhà và vẫn giữ cho đến bây giờ. Chiếc đĩa
này tôi sẽ trao cho con tôi, để mai sau khi tôi không còn nữa, chúng sẽ nhớ
ngày, nhớ tháng, nhớ năm, mẹ phải bỏ nước ra đi.
Cuối năm, năm ngoái, khi ghé vào hiệu
sách gần nhà, lang thang tìm mua mấy cuốn sách nhi đồng cho cháu, tôi chợt nhìn
thấy loại lịch để bàn, xé từng tờ mỗi ngày. Tôi đứng ngẩn người ra ngắm, như
ngắm một người bạn cũ lâu ngày gặp lại.
Tất cả dĩ vãng xa xưa chạy về trong trí
óc của một phụ nữ luống tuổi. Tôi ngắm nghía từng cuốn lịch với những đề tài
khác nhau. Bối rối không biết nên chọn cho mình cuốn nào, để mỗi lần xé là một
lần nhắc về quá khứ.
Tìm mãi chẳng có cuốn nào đúng theo ý
mình. Cuối cùng tôi đành chọn một cuốn, mỗi ngày có một câu nói vui, để giúp
lòng thanh thản. Mua về để trên bàn viết, ngay sát máy vi tính để nhớ xé. Kiếm
sẵn một cái hộp để cạnh cuốn lịch, khi xé tờ nào thì cất ngay vào đó. Hai tháng
đầu, tôi nhớ lắm, mỗi ngày xé một tờ, dần dần bận chuyện hàng ngày, cả tuần
quên xé. Khi nhìn con số ghi ngày trên lịch và con số ở góc máy vi tính khác
nhau, mới vội vàng xé. Đã có lúc tôi quên nguyên một tháng không xé, khi phải
xé một nắm dày thời gian trong tay thấy lòng chùng hẳn xuống.
Tôi đã đủ già, để biết tiếc thời gian.
Những tờ lịch mới luôn luôn là một đề
tài lôi cuốn trong đời sống. Nên mỗi năm, người ta làm lịch đủ mọi hình thức và
mang những nội dung khác nhau, dù cũng chỉ là đếm ngày tính tháng. Bức hình
phong cảnh thanh nhã hay hình súc vật hiền lành, hình ca sĩ, tài tử lộng
lẫy,v.v…thì cũng vẫn ngày tháng đó. Hình ảnh hấp dẫn tới đâu cũng không kéo
tháng dài ra thêm một ngày hay cắt đi ngắn một ngày trong tuần được.
Những câu danh ngôn, câu thơ in
trên lịch cố níu kéo thời gian trên cánh chim mùa xuân, hay thả thời gian bay
như cánh ong mùa hạ cũng chẳng giúp được gì. Tờ lịch thản nhiên làm nhiệm vụ
rất nghiêm chỉnh của nó: Rơi từng giọt thời gian mỗi giây, mỗi phút.
Thời gian tự nó trôi đi chứ không phải
chờ tờ lịch rơi xuống mới đi theo.
Thi sĩ Thanh Nam, định cư ở Seattle,
Washington khi cám cảnh thời gian của người di tản là chính mình, đã viết:
Một năm người có mười hai tháng
Ta trọn năm dài Một tháng Tư.
Cái tháng Tư đứng lại trong tim, trong
trí mỗi người Việt di tản chứ không đứng lại trên tờ lịch. Chúng ta đã thay tới
cuốn lịch thứ bốn mươi rồi. Bốn mươi năm đó biết bao nhiêu sự việc xảy ra chung
quanh đời sống chúng ta. Có ai nhìn xuống cuốn lịch rồi bâng khuâng tự hỏi: Ta
đã làm được gì cho mình, cho người, cho quê hương đất nước. Dòng thời gian bốn
mươi năm ta xé mỗi ngày, có sót lại chút gì trong lòng bàn tay không?
Sang Mỹ mấy chục năm, tôi quên cái hình
ảnh những cánh bướm thời gian thả vào một buổi chiều cuối năm dương lịch, quên
cái nôn nao của yêu đương, mơ mộng và đôi khi quên mất tuổi mình.
Cuối năm dương lịch vừa đi qua, tôi mở
chiếc hộp thời gian ra, nhặt lên những tờ lịch chính tay mình đã xé, thấy lòng
mình chùng xuống. Bây giờ mang nắm thời gian này thả đi đâu? Tôi không ở cao
ốc, làm sao mà mở cửa sổ tung xuống đường như những ngày còn ở Sài Gòn. Cái balcony
nhà tôi không đủ cao và nếu tôi có vứt xuống thì chính tôi sẽ là người phải đi
gom lại, vì sợ thời gian của tôi bay tung khắp nơi, làm phiền hàng xóm. Tôi
đành bỏ tất cả vào lại trong hộp, chờ ngày 23 tháng chạp âm lịch, hóa lịch thay
cho hóa vàng, tiễn ông Táo về trời.
Tôi đi mua một cuốn lịch để bàn cho năm
2015. Tôi lại bắt đầu xé thời gian mỗi cuối ngày. Tôi hỏi vào không gian trước
mặt:
- Tôi còn xé thời gian như thế này
của bao nhiêu cuốn lịch nữa?
Không gian im lặng.
Tôi biết rằng nếu tôi có hỏi một ai đó,
cũng sẽ không ai trả lời cho câu hỏi của tôi rõ rệt được. Họ chỉ phỏng đoán và
phần đông đều đoán sai.
Tôi xé thời gian ra từng mảnh
sao vẫn còn nguyên tháng Tư buồn
tôi hóa thời gian theo vàng mã
tàn tro bám chặt ở trong hồn
(tmt)
Đã bao nhiêu tờ lịch rơi xuống, bay đi
trong bốn mươi năm, nhưng tờ lịch ngày 30 tháng Tư thì hình như không rơi
xuống, không bay đi được, nó nằm chôn sâu trong lòng những người miền Nam và
thời gian dừng lại ở đó…..ở đó. Thời gian không có tác động gì với những trái
tim người di tản.
Trần Mộng Tú
Tết
Ất Mùi -2015
Người
chuyển bài – Phiên Nguyễn
No comments:
Post a Comment