Nơi Hạnh Phúc Bắt Đầu
Chương
Mười Một
Kontum, một tỉnh nhỏ và lẻ loi của rừng
núi cao nguyên nằm cách Pleiku, thủ phủ vùng hai chiến thuật không hơn sáu mươi
cây số. Phía bắc Kontum, hai quận Dakto, Daksuk, nằm sâu cạnh ranh giới Quảng
Ngải đã bị quân Cộng sản chiếm, từ những ngày mùa hè đỏ lửa. Ngồi trên trực
thăng người ta có thể thấy rõ ràng bóng dáng bộ đội Bắc quân đi qua đi lại
quanh vùng, nhất là sau ngày có hiệp định Ba Lê. Tỉnh lỵ không có bao nhiêu con
đường, thành phố chạy quanh chạy quẩn cũng chỉ là mấy dãy phố bao quanh cái chợ
tỉnh luôn vắng người từ xế trưa. Từ đỉnh núi Kompa bốn mùa mù sương nhìn xuống,
Kontum như cái lòng dĩa tròn đơn độc. Sông Dakla, con sông chảy ngược giòng, đổ
về núi thay vì ra biển, uốn mình chia đôi thành phố, hai bờ cát trắng phau,
khác Pleiku mịt mùng bụi đỏ, lặng lờ, dưới cái cầu nửa sắt nửa xi măng dẫn vào
tỉnh lỵ, từ hướng Pleiku lên. Bên này cầu, ngôi nhà gỗ mung hai tầng lầu, dân ở
đây thường gọi là Biệt Điện vì đó là nơi dùng làm nhà nghỉ mát cho Tổng Thống
Ngô Đình Diệm, mỗi khi lên cao nguyên, lúc còn sống và còn quyền, là nơi giờ
trở thành cư xá cho dăm ba công chức cao cấp, độc thân trong tỉnh ở. Sau lưng
là góc công viên nhỏ, cỏ xanh dầy đặc và hoa leo đủ loại vây quanh cái bia đá ghi ơn chiến sĩ màu xám bám đầy rêu. Cuối phố, qua
trường trung học tỉnh, chạy vòng theo dưới đồi, đường về xã Phương Quý, hai bên
mấy dãy rừng cà phê hun hút. Lính trận trên phố thường nhiều hơn dân trừ những
giờ tan trường có chút màu trắng áo dài. Kontum không có bao nhiêu ngày nắng
trọn, trời cứ khói sương mờ mờ lành lạnh quanh năm. Chợ có độc nhất một rạp
chiếu bóng Diệp Kính, ít khi mở cửa trễ về đêm. Quán cà phê với cái tên ngồ ngộ
Forget Me Not, do hai chị em, người từ Đà Lạt lên
làm chủ, trên đường Ngô Quyền hình như lúc nào cũng thấy đông khách. Lác đác
một vài thiếu nữ Thượng, nặng nề mang gùi bán hoa Lan rừng, đi lên đi xuống
trong buổi chợ sớm.
Mới đó cũng đã gần hai tháng, kể từ ngày
Luân lên nhận chức vụ Phụ Tá Biện lý tòa án Kontum. Tòa án nằm trên một con
đường dốc, gần ty Bưu Điện tỉnh, lặng im ẩn mình sau hàng cây thông xanh và
thẳng tấp bao quanh. Bạn bè ở đây không có mấy ai, vài anh Trưởng ty hoặc Phó
quận độc thân từ miền nam ra, hình như không còn thêm ai nữa. Chiều chiều tụ
năm tụ ba, không tập tành đánh quần vợt thì bài bạc cho qua ngày tháng. Đêm ở
đây xuống rất nhanh, chưa thấy hết giờ làm việc thì phố xá đã lên đèn, trời mù
sương lạnh, ít khi thấy người lang thang ngoài đường ngoại trừ những chiếc xe
cảnh sát tuần tiễu mờ mờ lên xuống, không có tiếng súng lưa thưa nổ xa xa đâu
đó như những ngày ở Tây Ninh nhưng vẫn thấy hỏa châu bập bùng tận một phía
trời. Căn nhà nhỏ mà tòa án để cho Luân ở, nằm cạnh bờ sông Dakla, cách hàng
rào khu gia cư của thương phế binh khoảng mươi thước. Luân thường thả bộ một
mình, dọc theo bờ cát trắng phau khi con nước xuống, nhìn mặt trời đỏ bầm chầm
chậm lặn phía sau rừng cuối xã Phương Hòa. Thỉnh thoảng Luân theo anh Nông, thư
ký kiêm thông dịch viên tiếng Thượng, lớn hơn Luân vài tuổi, gốc người Ra-đê,
có tú tài một, được tuyển vào làm việc cho Tòa án từ năm ngoái, lên buôn Thượng
chơi, lên nhà sàn nhà rong, tập uống rượu Cần, ngọt lần đầu nhưng say nằm liệt
lúc nào thì có trời mới biết. Theo anh, Luân cũng quen dăm ba cô gái. Mấy người
bà con của anh Nông sống trong buôn, đi săn trong rừng sâu, hái cho Luân vài
cụm hoa Lan rừng đẹp lạ lùng, Luân treo trên tường, quên cả tưới nước, cụm hoa
vẫn tươi một màu vàng rực rỡ. Luân đã thấy lòng mình se thắt, ngậm ngùi nhiều
đêm, khi nhìn cụm hoa Lan vô tội vô tình phơi màu, ẩn trên tường vôi trắng. Cái
màu áo mà Hiên mặc trong ngày gặp Luân, tại quán sinh tố Hằng Phương, một chiều
đầy nắng ở Tây Ninh, ngày mà lòng Luân thà về yêu hoa cúc, không mến lá sân trường. Hình như Luân đã sống quá dài
trong ray rứt, trong lạnh lùng, từ ngày Hiên bỏ đi. Kỷ niệm của một đời yêu
nhau chừng như tan tác buông xuôi theo năm dài tháng đợi. Luân hờ hững sống đời
con tằm, cứ lặng lẽ nhả tơ trong ổ kén quạnh hiu xanh lá.
Luân nhận thư chị Quỳnh cùng lượt với thư
của Khánh Tường. Chị Quỳnh dặn dò đủ chuyện, nhắc Luân đừng đi chơi xa vì nghe
anh Hưng nói tình hình trên này, theo anh biết không yên lắm. Chị hy vọng là
Luân có dịp về ăn thôi nôi thằng bé Bảo. Thư Khánh Tường viết vài trang trên
giấy màu xanh lá cây nhạt, thăm hỏi không khác gì chị Quỳnh, lúc này thường đến
chơi với chị Trang, dạo phố dạo phường những khi nghỉ dạy, chị Trang lười quá,
ì ạch tới giờ này cũng chưa đậu được cử nhân, cuối thư nhớ Luân nhiều lắm.
Trời ở đây giờ đã cuối mùa thu, dăm ba cành
lá thông khô, khẳng khiu gãy vụn, nằm trơ trọi bên đường trên dốc lên tòa án
trong những sáng mù sương, buồn da diết. Cuối thu lập đông, mới giao mùa mà
Kontum lạnh buốt. Đường phố lạ hẳn lên, áo len đủ màu đủ sắc từ ngõ hẹp đầu chợ
đến khắp sân trường. Ly cà phê nóng chợt trở thành một cái gì không thể thiếu
mỗi sáng, trước khi đến sở làm, dù có muộn màng, ngồi bên này nhìn trên con sông
Dakla, sương phủ mịt mù như khói tỏa, mới hiểu lòng ai buồn vì ở đây sương khói mờ nhân ảnh. Luân lẻ loi ở Kontum những ngày
tháng đó. Thứ bảy chủ nhật cuối tuần, thỉnh thoảng, đôi ba lần, Luân theo mấy
người bạn bên tòa Hành Chánh xuống Pleiku, cái thành phố buổi chiều quanh năm mùa đông. Tỉnh lỵ Pleiku lớn hơn và nhộn
nhịp hơn Kontum vì là bản doanh của Quân Đoàn 2 và Vùng 2 chiến thuật. Phố xá
không khác nhau cho lắm, cũng những con đường đồi dốc ngoằn ngoèo, cũng dăm ba
hàng cây thông thẳng tấp. Phi trường Cù Hanh về chiều, nếu không có chuyến bay
đêm nào đó, buồn như một nghĩa trang chiều ba mươi tết. Đâu đâu cũng là bụi đỏ,
bụi đỏ nhuộm công viên, phố chợ trong ngày hanh nắng, bụi đỏ in dấu chân người
trong ngày mưa lầy lội. Bọn họ lang thang hết đường Hoàng Diệu, khu tắm hơi đấm
bóp rồi qua Phượng Hoàng nhìn thiên hạ nhảy đầm trong tiếng nhạc bập bùng. Đêm
ghé quán Vông Vang, uống cà phê Ban Mê Thuộc nghe nhạc tình buồn, khóc đời cô
lữ trước khi trở lại khách sạn Thanh Lịch, quăng người xuống giường ngủ quên,
sáng ngày dậy muộn. Rảnh rỗi hơn, trên đường về lại Kontum, vòng qua Biển Hồ,
quay xuống quận Lệ Trung, xem thằng bạn Phó Quận tên Nhựt ngồi tán gái sơn
cước, bằng tiếng đồng bào Thượng, học tới học lui vẫn còn ngọng nghệu thấy mà
thương. Cũng muốn xuống Lệ Thanh đó nhưng sợ cán mìn nên đành thôi. Vào điạ
phận Kontum, cố nhấn ga cho xe jeep chạy nhanh khỏi ngọn đồi trọc Chupao, nơi
lính Dù VNCH quần thảo với quân Cộng sản Bắc việt, cày nát từng gốc cây ngọn cỏ
vài năm trước, nếu thấy nắng chiều tắt sớm phía sau lưng.
Sau Giáng sinh, quân cộng sản pháo kích và
tấn công vào tỉnh lỵ từ phía xã Khromon, một xã Thượng thuộc quận châu thành
Kontum. Pháo trúng khu gia cư Thương phế binh, lửa cháy dữ dội, một số người
chết. Súng đạn nổ khắp nơi, trên cả đường phố, xé màn đêm, sáng rực một góc
trời. Trong cái rét lạnh giữa khuya, Luân sắp một số đồ cần dùng và hai cái hủ
đựng tro cốt ba mẹ vào túi xách, xỏ đại đôi giày bố ba-ta, chạy qua Biệt Điện,
theo lời của mấy anh Quân cảnh đến báo. Bạn bè bên này cũng đã chuẩn bị đâu đó
sẵn sàng. Ông Trung Tá Quận Trưởng Châu Thành cho biết, trừ khi xe tăng cộng
sản tràn qua cầu, họ sẽ rời tỉnh lỵ với một số xe thiết giáp M113 hộ tống, cùng
với sự hổ trợ của Biệt Động quân nằm sẵn tại Phương Hòa, cho đến ranh quận di
tản Dakto, tỉnh dùng đất một số xã gần đường làm tạm quận Dakto, di tản từ Tân
Cảnh xuống, sau khi Sư Đoàn 3 rút bỏ trong trận mùa hè 72, nếu tình hình nghiêm
trọng hơn. Chừng hai giờ khuya, tiếng súng thưa dần rồi im bặt. Lính Biệt Động
đông nghẹt, ngoài đường bắt đầu có tiếng cười tiếng nói. Bộ đội Cộng sản bỏ lại
mươi xác rải rác quanh bộ Chỉ huy cảnh sát tỉnh và trung tâm hồi chánh viên
đang ở. Luân xách túi băng qua bến xe, về lại nhà, lửa bên khu gia cư Thương
Phế binh chưa tắt hẳn, Luân thức luôn tới rạng sáng. Dân Kontum rục rịch bàn
chuyện dọn về Pleiku mấy ngày sau đó.
Chương
Mười Hai
Đầu tháng ba, Ban Mê Thuộc mất, quân VNCH
rút về cố thủ phía nam, chờ mấy liên đoàn Biệt Động Quân từ Kontum xuống, theo
lệnh tái chiếm của chính phủ VNCH. Miền Nam sôi sụt trở lại sau hơn một năm
tạm yên. Vùng 1, Quân cộng sản rầm rập tung hết các sư đoàn có mặt trong nam,
bắt đầu tràn quân vào trận chiến. Chính trường miền Nam hỗn loạn, quốc hội Mỹ bác bỏ dự
luật tái viện trợ quân sự và kinh tế cho VNCH, hệ thống quân đội cũng như chánh
quyền miền Nam
trên đường bế tắt. Báo chí, truyền thanh, truyền hình ngoại quốc cho tin, miền
nam mất nay mai. Dân chúng hốt hoảng, người có tiền, có quyền thế, tính chuyện
ra đi. Không hơn một tuần sau, quân VNCH rút khỏi Ban Mê Thuộc, bỏ chuyện tái
chiếm, ùn ùn triệt thoái cao nguyên, cũng theo lệnh từ Tổng Tham Mưu về lập
vòng đai cố thủ đâu đó. Tướng Tư Lệnh vùng 1 ra lệnh tử thủ chưa đầy vài ngày,
Thủy Quân Lục Chiến bỏ Đà Nẳng, rút ra tàu từ bãi Sơn Chà theo đường biển xuôi
nam. Vùng 1 mất vào tay Bắc quân nhanh như chớp. Dân miền Trung, hàng hàng lớp
lớp, đường bộ đường biển bồng bế nhau di tản vô nam. Đánh nhau không thấy hình
như chỉ thấy quân VNCH bỏ chạy, có lẽ không ai chịu làm người chết giờ thứ hai
mươi lăm. Vùng 2 rồi cũng chẳng hơn gì, Bình Định Qui Nhơn chỉ còn là cái tên
để gọi, quân cộng sản đóng chốt Tam Quan, Hoài Ân, Hoài Nhơn không tốn một viên đạn nhỏ. Bắc
quân đưa gọng kìm kẹp chặt hai tỉnh Kontum Pleiku.
Không đầy một tuần lễ sau ngày mất Ban Mê
Thuộc, thành phố Kontum bắt đầu di tản, tỉnh lỵ hỗn loạn như một gánh hát rã
hàng không tiền trả tiền mướn rạp. Công chức quân nhân, nhỏ lớn mặc ai, không
còn thấy gì là lệnh lạc. Các buôn làng Thượng im lìm thu mình trong màn sương
dưới núi. Sáng thứ bảy, lái xe lên tòa án, anh Nông, thư ký đã đứng chờ Luân
ngay cổng ra vào, người cảnh sát thường gát trong cái chòi canh không thấy
bóng. Anh Nông lo lắng nhìn:
-
Thưa ông, không còn ai trong đó đâu, họ đi hết rồi
Luân
ngỡ ngàng chưa kịp đáp, anh tiếp theo với vẻ mặt buồn vời vợi :
-
Tôi nghĩ chắc ông cũng lo về Sài Gòn đi, ông Chánh án, ông Biện Lý và gia đình
về Pleiku từ chiều hôm qua, ngay sau khi đóng cửa.
-
Rồi còn anh thì sao ? Luân đắn đo hỏi anh Nông.
Anh
lắc đầu cười gượng :
-
Tôi là người ở đây, thì đi đâu bây giờ ! Anh lên xe honda nổ máy chậm ra đường,
quay đầu nói vọng lại:
-
Cám ơn ông, chúc ông bình an, mau gặp lại gia đình.
Luân
đứng nhìn theo bóng anh mất hút, ngược hướng đoàn người bỏ đi từ phía xã Phương
Qúy.
Trở lại nhà, quơ vội mấy thứ cần, quăng đại
lên xe jeep, Luân lái qua Biệt Điện, đón đám bạn công chức, chen lấn lớp người
lớp xe hấp tấp qua cầu. Sông Dakla vẫn lặng lờ chảy ngược lên rừng, mấy người
lính nghĩa quân Thượng, ngày thường đóng giữ an ninh cho Biệt Điện, còn đứng lố
nhố quanh mấy cái lô cốt chằng chịch bao cát. Luân theo sóng người di tản bỏ
Kontum. Xế chiều đoàn người tới Pleiku, dân Pleiku đã bỏ đi từ đêm hôm qua. Bộ
chỉ huy quân đoàn 2 di tản về Nha Trang trước đó nữa. Phố xá ngổn ngang xe cộ,
quân phục súng ống vứt đầy đường, phủ một màu bụi đỏ. Cổng sắt phi trường bị
gãy làm đôi ngã quỵ. Dãy văn phòng dài vẫn còn có đèn. Tòa Hành Chánh Pleiku,
không bóng người. Chợ búa, quán ăn cửa cổng mở tung, đập từng tiếng khô khan
theo chiều gió. Người nối tiếp người, xe nối tiếp xe từ Kontum xuống, tràn ngập
khắp chỗ, rồi người lại tiếp nối người, xe tiếp nối xe từ Pleiku ra đi, chừng
như không ai sẽ trở về đây nữa.
Đêm
đó, trong cái bóng đêm nóng bức của tháng ba lưng chừng mùa xuân, Luân len theo
đoàn người lầm lũi rời Pleiku, trong đó có quân có dân, có xe nhà xe lính, mở
đèn sáng lờ mờ xen kẽ nhau, ngơ ngơ ngác ngác trên đường dài hàng mấy mươi cây
số. Giữa khuya, sương rừng xuống lạnh, tiếng con nít khóc quanh đây không lấn
át nổi tiếng đàn muỗi rừng gọi nhau tìm mồi nghe ớn lạnh. Người mệt mỏi ngã quỵ
bên lề, người còn đi cố đi, không ai biết là đi về đâu và bao giờ sẽ tới.
Sáng sớm, sau suốt một đêm dài đi không
nghỉ, khi Luân đến khoảng đường chia ba ngã rẽ, cách Pleiku có lẽ cũng khá xa
thì đoàn người rời Pleiku hôm trước đã ở đây từ lâu. Người tới trước vội vã tìm
người quen tới sau, gọi tên nhau mệt lã. Bọn Luân tấp xe đậu vào bên lề sau
đoàn xe có sẵn, đi bộ lên phía trước nghe ngóng. Không ai bảo ai, đoàn người
chậm lại rồi dừng hẳn. Ban Mê Thuộc mất không thể đi về hướng đó, ra Qui Nhơn
thì Hoài Ân, Hoài Nhơn đang bị quân Cộng sản đóng chốt, cũng không có cách gì
vượt qua, chỉ còn ngả xuống Phú Bổn là con đường duy nhất. Bọn Luân trở lại xe,
ngồi lặng thinh, dãy rừng dọc theo đường phía dưới thung lũng âm u, vẫn chưa
thấy mặt trời.
Trời nắng, chừng đó bước chân người, cũng
đủ làm bụi đỏ bay mịt mùng, trên con đường đất mang tên liên tỉnh lộ số 8, chật
hẹp và loang lở. Bọn Luân phải bỏ xe jeep bên đường vì xe không còn một giọt
nhớt nào trong máy, sau khi qua chợ quận Phú Thiện không xa. Có lẽ ở đây, dân
đã bỏ đi sớm lắm, khu phố không một người, chim rừng từng đàn, đậu che nghẹt cả
sân gạch, nóc nhà. Dăm ba người đàn ông Thượng, thong thả đẩy xe đạp chất đầy
mấy bao gạo, lấy từ các tiệm vô chủ, chậm rãi về buôn làng, nhìn đoàn người vội
vã một cách hững hờ. Dọc theo đường, mùa này sim rừng trổ hoa, nở rộ một màu
tím ngắt, bọn Luân lếch thếch lẩn khuất vào đám đông, nơi mà họ mong đến vẫn mù
xa. Liên tỉnh lộ 8, đoạn nối Phú Bổn Tuy Hòa đã bỏ hoang, không dùng từ ngày
cách mạng 63, hai bên đường là mây rừng chằng chịch, khúc rộng khúc hẹp, cây
cối không bao nhiêu, có khi nám đen cả vùng, không ngay hàng thẳng lối như đoạn
qua Phú Thiện, Phú Túc. Không có lấy một cái nhà, không một bóng chim, sau
lưng, trước mặt đồng không mông quạnh, rừng tiếp nối rừng.
Ngày lầm lũi đi, đêm nằm vất vưởng màn trời
chiếu đất, đoàn người tới cầu Đông Bắc, cái cầu sắt rỉ sét, đong đưa như chiếc
võng lắc sau hè, bắt ngang một nhánh sông lẻ bạn, còn chút nước lấp xấp chừng
như muốn cạn, dưới sức nóng nung người của nắng miền Trung. Người kéo theo
người ùa xuống nước reo mừng, chẳng cần biết trong hay đục. Luân đi dài theo
bờ, tìm một chổ tương đối ít người có đôi ba bụi rậm trốn nắng, để nguyên quần
áo nằm dài trên đất, nước sông mát rượi thấm nhẹ nhàng vào từng thớ thịt.
Xuống
lưng chừng đồi, sau khi qua khỏi mấy cánh đồng tranh hoang tàn, người ta có thể
nhìn thấy lờ mờ vài mái nhà, hai ba con trâu động đậy, xa xa ở cuối đường.
Người đầu gọi người phía sau ơi ới trong cái màn sương của buổi sáng vừa lên.
Đoàn người xuống đồi vào chợ quận Cung Sơn, một quận thuộc tỉnh Phú Yên, không
có đưòng bộ, mọi việc đi lại phải do trực thăng từ Tuy Hòa vào, cứ hai ba ngày
một lần. Vài nhân viên hành chánh và dăm ba anh sĩ quan của quận, ra đón và
hướng dẫn đoàn người tập trung vào sân vận động. Không đủ chỗ, người tản ra
chật cả mấy cánh đồng, mấy con đường đất chung quanh khu phố quận. Khúc sông Ba
chảy quanh ngang phía sau quận, không thấy rộng bao nhiêu so với số lượng mấy
ngàn người. Quận còn vài tiệm bán cơm nhỏ, thấy buôn bán vội vàng, chắc cũng
không còn ở đây bao lâu nữa. Đám bạn từ Kontum đi, tản lạc lần trên đường, thân
ai nấy lo, ở lại Cung Sơn mấy hôm, ngày nào cũng đi lang thang đầu trên xóm
dưới, không gặp được ai, một mình lủi thủi.
Chiếc trực thăng cuối cùng, rời Cung Sơn
với một số người, vào buổi chiều, không thấy trở lại sáng hôm sau như thường
lệ. Xế trưa, dân quận Cung Sơn, gồng gánh, nhập theo đoàn người từ cao nguyên
ra đi. Anh lính địa phương quân thẫn thờ bỏ súng, nằm vất vưởng bên hàng rào
chi khu rỉ sét, cổi đôi giày nhà binh quăng bất cần xuống cái hố, không còn bao
nhiêu nước, vì mấy ngày chưa thấy mưa, đưa tay bịt lấy đầu tuyệt vọng, nói lầm
thầm đ. m. bỏ Cung
Sơn nữa !. Đoàn người
khựng lại bên nầy bờ sông Ba, lúc xế chiều, sau khi rời Cung Sơn được năm sáu
tiếng đồng hồ. Con đường số 8 tới đây đứt quảng, bị cắt đôi bởi con sông, mùa
này nước cạn. Mực nước sông chỉ cao khoảng tới đầu gối. Mấy chiếc quân xa GMC,
kéo bỏ từng cặp miếng sắt dài, thường thấy trong các căn cứ quân sự VNCH, ngang
theo khúc sông gần nhất, cho xe hơi chạy. Lục đục đoàn người, vừa xe vừa người
lấp xấp nước qua sông. Qua bên này bờ nhìn lại, người chen người như một đàn
kiến khổng lồ suốt con đường dài thăm thẳm, lố nhố tận mấy dãy đồi xa mờ trong
tầm mắt. Có người bị thương vì trúng mìn khi vào sâu trong lùm cây. Tiếng
truyền miệng bảo nhau, đừng vào xa lề đường, cố ở giữa nếu không sẽ bị mìn,
loại mìn con cóc, chôn lại từ ngày con đường không xài tới nữa.
Đêm qua đêm, ngày qua ngày, chung quanh chỉ
rừng là rừng, Luân đến một khu ấp nhỏ, tương đối còn an bình, nằm dọc theo con
kinh đào xây bằng xi măng, nước trong xanh, từ hướng núi chảy xuống. Nhà tranh
từng cái một, cất thẳng hàng cách một bên bờ kinh bằng con đường đá xanh không
mấy bằng phẳng. Sau lưng dãy nhà là mấy cánh đồng lúa ngập nước, nối liền dãy
núi xa xa. Toán người đi trước vài hôm đã có mặt ở đây mấy ngày rồi. Dân trong
ấp Đồng Cam cho biết, quân cộng sản Bắc việt đấp mô chận ngay đầu ấp, chờ vài
hôm, lính trên Phú Lâm mở đường, có xe lam khách xuống rồi đi. Lang thang lên xuống,
áo quần lếch thếch, Luân gặp Nhựt, anh bạn Phó quận Lệ Trung, Pleiku, ngồi gục
đầu bên cạnh đám chuối gầy còm, xơ xác lá, gần căn nhà tranh lụp sụp nhất trong
ấp. Hai người nhìn nhau ngao ngán, thở dài, chia nhau cái củ chuối luột nguội
khô mà bà cụ già chủ nhà vừa cho Nhựt trước đó. Nhựt tới Cung Sơn rồi Đồng Cam
sớm hơn Luân nhưng kẹt lại đây vì quân Cộng sản đóng chốt trong mấy cái đồi sát
đường, con đường duy nhất về Phú Lâm, Tuy Hòa, một bên là rừng, một bên là kinh
đào, không có ngõ thoát nào khác. Theo lời dân trong ấp, có một số người qua
được vài hôm, trước khi Bắc quân xuất hiện. Gần chiều tối, có tiếng súng nổ
liên tục và dữ dội, ở phiá đầu ấp bị đóng chốt cách chỗ Luân chừng ba bốn cây
số. Người nhao nháo lên, ngơ ngác đứng ngồi. Bà cụ già ra sân nhìn trời lắc đầu
không nói. Chừng nửa giờ, tiếng súng im bặt. Luân và Nhựt len lên phía trên
nghe ngóng, khoảng mấy trăm người, nóng lòng vượt chốt đi vì thấy trên đường
vắng tanh. Quân Cộng sản giữ chốt, lặng im để toán người lọt qua khỏi khá xa, ra
chận hai đầu chốt, xả súng bắn như mưa, toán người kẹt giữa đường chết gần hết.
Vài chục may mắn, nằm im bên xác người khác, dưới ruộng ngập nước phèn, chờ
trời tối, bò ngược về ấp, mệt lã, mặt không còn chút máu. Nắng ròng rã cháy da
mấy ngày sau, mùi hôi thúi của xác người chết, nằm phơi thây trên đường, theo
chiều gió ngược từ phiá đầu ấp xuống rờn rợn khó chịu. Quân lính VNCH, có cả
Thiết vận xa M113 nhiều lần cố mở đường, không đánh bật nổi chốt, súng hai bên
nổ rung trời, bụi mịt mù bay mờ cả một vùng, chừng hai hôm rồi không thấy tăm
hơi. Đoàn người di tản bắt đầu xuống tinh thần, kêu gào trách móc. Luân cùng
Nhựt quyết định tách theo nhóm người độ vài trăm, đi ngược lại theo con đường
nhỏ băng cánh ruộng cuối ấp, về phía núi, theo như lời bà cụ già, bên kia núi
cũng có đường ra Tuy Hòa miệt trên, có điều hơi xa và nguy hiểm vì phải leo
dốc. Bộ đội Cộng sản lố nhố xuất hiện xa xa, trong các khu rừng quanh vùng mà
đoàn người di tản đã đi qua những hôm trước.
Lần theo con đường đất mòn, giữa cái thung
lũng hai bên núi, nhóm người chầm chậm đi dọc bên sườn đồi thấp. Lác đác từng
nhóm nhỏ lặng lẽ theo sau. Rừng cây trên núi càng lúc càng rậm xanh hơn. Gần
chiều tối bọn họ qua được lưng chừng ngọn đồi, quả đúng như lời bà cụ, từ đây
người ta có thể nhìn thấy con đường trải nhựa nhỏ xíu, chạy uốn cong theo chân
núi mờ mờ bên dưới, dăm ba cụm nhà rải rác cùng mấy hàng dừa bé tẻo teo. Sáng
sớm, sau một đêm ngủ lại trên đồi, nhóm người tiếp tục lên đường, đường xuống
núi có vẻ khó đi và quanh co, không như chặng trước. Chưa được bao xa, họ bị
toán bộ đội Cộng sản đi tuần bắt, họ dẫn nguyên đoàn người về một khu đóng quân
rộng, nằm khuất trong khu rừng rậm cạnh đồi, quân trang quân dụng và vũ khí đủ
loại chất thành từng đống. Luân và Nhựt được thả, hai ngày sau, với cái lý lịch
là giáo viên, trên tờ giấy đi đường cấp bởi tên Chính Trị viên, sư đoàn cao
nguyên tây tiến, cho phép về sum họp gia đình ở Sài Gòn. Toán quân độ mười mấy
người, đưa đám người được thả băng rừng bằng một con đường mà họ vừa mở, xuống
gần tới lúc nhìn rõ được nhà cửa cây cối phía dưới, họ quay trở lại, chỉ hướng
cho bọn Luân đi tiếp.
Thuyên Huy
(còn tiếp)
No comments:
Post a Comment