Bất Chợt Thu Về Đầu Hạ
(Chương Mười)
Chương
Mười
Vợ
chồng chú Hiếu đóng cửa tiệm, dắt hai đứa nhỏ theo tôi về Bến Cầu chơi vài
hôm trước khi tôi khăn gói xuống Sài Gòn trọ học. Học trò tỉnh vẫn còn nghĩ hè.
Bến Cầu, quê tôi độ này buồn quá, buồn hơn ngày xưa nhiều, đò dọc đò ngang
trong miệt Long Chử Long Giang giờ ra chợ xã lơ thơ dăm ba cái. Bến tàu lớn đi
Cẫm Giang bớt ồn ào người buôn người bán, đám dừa nước bám dọc theo hai bên bờ
sông lớn ngay cầu đò càng ngày càng già nua cằn cổi. Chợ xã nhóm muộn hơn, rạng
sáng vẩn còn có tiếng súng đì đừng nổ phía gần biên giới Miên, tiếng đại bác
kéo dài trong đêm đã không còn xa lạ. Tàu chở dừa cau đi giao hàng của nhà tôi
giờ thì chuyến trễ chuyến đình. Cái lô cốt lính trước trụ sở xã bao quanh toàn
là bao cát xám xịch, chất cao đến nổi không thấy hết trọn mặt của anh lính
nghĩa quân ngồi gát. Bến xe nhỏ đi Gò Dầu, ngang hông chợ giờ chỉ còn một
chuyến trong ngày, buồn hoang buồn vắng.
Hôm trở
lại tỉnh để đi Sài Gòn, cả nhà anh chị Thương cùng với ba mẹ đưa tôi và
gia đình chú Hiếu ra bến tàu. Cũng như những lần trước, mẹ tôi dúi vào tay tôi
thêm chút tiền mặc dù ba tôi đã cho từ
tối hôm qua. Mẹ tôi tuy cười nói nhưng tôi không thấy bà vui, giống như
ba tôi, trán bà giờ thêm nhiều nét nhăn dài và sâu thẳm, tóc họ không khác gì
bông bưởi góc vườn. Nhìn bà tôi không muốn nói gì hơn, dù chuyện cô tư Hòa,
trong lòng tôi vẩn còn như một cơn bảo rớt. Tàu lớn bắt đầu nổ máy, sương sớm
vừa chập chửng tan, chợ đã có người lên xuống, lá cờ trong sân trụ sở xã trở
mình phất phất nhẹ theo gió sáng. Ba tôi cầm tay chú Hiếu, cám ơn chú đã về
thăm, chú Hiếu lầm thầm muốn khóc. Mẹ tôi vò đầu tôi, nhắc đừng quên những gì
bà đã dặn. Tôi và gia đình chú Hiếu xuống tàu, giờ này nước sông đã lớn từ lâu, tàu ra giữa sông, chúng tôi đứng trên
sàn tàu vẫy tay, bóng ba mẹ tôi và anh chị Thương nhỏ dần, rồi khuất sau rặng
cây thốt nốt che ngang khúc sông rẽ nhánh. Một lần nữa, tôi bỏ Bến Cầu đi.
Buổi sáng, trước khi xuống Sài Gòn, tôi đến
thăm cô tư Hòa và ở lại chơi cho tới gần xế trưa. Cả nhà nói cười rộn rịp,
thằng Phúc con Hạ lăng xăng đi tới đi lui nhắc tôi nhớ về chơi luôn, cô dượng
tư dặn dò ráng học. Đám con nít nhà bên cạnh thập thò ngoài cửa sổ nhìn vào
trong, dăm ba người quen hàng xóm đứng lãng vãng trước cổng rào, vẫy tay chào
hỏi. Đường giữa trưa vắng xe, bụi đường cuốn theo mấy cơn gió nhẹ bay như phấn lớp học. Đâu đây có tiếng hát ru con ngủ
bên xóm trong, lúc nhặt lúc khoan làm khu phố trưa buồn thiu thỉu. Cả nhà cùng
đứng chờ xe lôi máy với tôi bên đường, ai nấy lặng thinh, cô tư ôm tôi rưng
rưng nước mắt. Thằng Phúc, con Hạ rấm rứt khóc theo, tôi cười chào mọi người
nhưng môi tôi chợt nghe mằn mặn. Chiếc xe lôi máy chạy khá xa xuống cuối đường,
tôi vẫn còn thấy bóng dáng gia đình cô tư Hòa lố nhố trên đầu dốc. Về lại nhà,
chú Hiếu chuẩn bị mọi thứ rồi đưa tôi ra bến xe chợ mới. Con sông nhỏ ngăn đôi
thành phố đục ngầu màu nước bùn, dù hỗm rày trời chưa có mưa. Tôi từ giã Tây
Ninh một mình, Chiêu đã xuống Sài Gòn từ mấy ngày trước. Tôi cầm tay chú Hiếu
tạ từ và cám ơn. Chú dúi vào tay tôi gói giấy nho nhỏ, gọi là chút quà chú
thiếm tặng, chừng nào xuống tới dưới Sài gòn rồi mở. Chú đứng chờ xe từ từ ra
khỏi bến rồi mới bỏ đi. Chợ giờ này vắng tanh, tiếng quân xa dồn dập một phía
nào đó trên đường lên Cầy Xiêng nghe rõ mồn một, bụi đỏ cuốn mù khi xe đò bắt
đầu ra ngã ba đầu tỉnh, chậm qua ngang trường trung học. Sân trường loang lở cỏ
úa. Xác phượng rụng ngập khắp lối đi đỏ bầm màu máu, nắng chiều khuất dần sau
hàng cây trứng cá nơi Chiêu và mấy cô bạn lang thang trong giờ ra chơi và cũng
là nơi tôi với Tường, không ai bảo ai, đứng chờ nhìn cho được trong hồi hộp
xuyến xao. Cánh cửa sổ lớp học của Chiêu không ai buồn khép kín. Khu đồng trống
chạy dài xuống xóm chài bên kia sông chẳng còn bao nhiêu hoa dại tím.
Nhờ ba mẹ Chiêu, tôi đến ở trọ tại nhà
người dì bà con của Chiêu, một căn nhà gạch nhỏ khá xinh, nằm cạnh bên hông
trường Văn Học, trên đường Phan Thanh Giản. Lúc đầu, khi ba mẹ Chiêu nói chuyện
này, tôi áy náy hết mấy ngày, không biết trả lời sao, cuối cùng đành phải chịu
vì Thảo Ly và Xưa nói vô quá, Chiêu lặng thinh nhưng tôi biết trong lòng cô ta
xốn xan không ít. Bác Lâm, ba của Thảo Ly cũng bảo là để bác lo cho nhưng tôi
không dám nhận lời một khi ba mẹ Chiêu đã dặn trước.
Sắp vào học, trời mấy ngày nay bổng dưng đổ
mưa, mưa chập chùng trắng xóa cả một góc Sài gòn. Tôi đến nhà bà chị của Tường
tìm hắn. Tường vừa từ Đà Lạt về, trông
hắn có vẻ hân hoan vui sướng. Hai thằng kéo nhau ra chợ Đủi, uống cà phê ăn
bánh cuốn Trần Quý Cáp, nhắc chuyện ngày xưa của những đêm buồn tỉnh lẻ. Tường
lên Đà Lạt, ở với bà chị thứ ba đang dạy trường Bùi Thị Xuân sau khi xong thi.
Bà chị trong này đánh điện tín cho hay tin hắn thi đậu, Tường ở lại luôn thêm
mấy ngày. Không thấy Tường nói năng gì chuyện học hành, tôi nóng lòng hỏi
trước,
-
Mầy sắp nhập học chưa?
Tường
cười thoải mái,
-
Còn cả tháng nữa lận !
Tôi
ngẩng ngơ nhìn dáng điệu ung dung của hắn, quên cà hỏi hắn học ngành nào.
-
Sướng quá hả, người ta đã nhập học cả rồi mà mầy còn cả tháng long bong nữa!
Lúc
bấy giờ Tường mới hiểu ra rằng tôi chưa biết gì hết. Tường đưa ly cà phê lên
nhấm chút xíu rồi nói:
-
Mầy không gặp Chiêu sao, tao tưởng mầy biết rồi, tao tình nguyện vào trường sỉ
quan Đà Lạt và đã làm xong thủ tục, giờ chờ ngày lên trển thôi, bốn năm..
Tôi lặng người đi, không nói thêm được gì
hơn. Tường thích sống mạo hiểm, năng động không âm thầm lặng lẽ như tôi, nhưng
tôi chưa hề nghĩ tới chuyện Tường vào lính, nhất là thời buổi này, ai cũng mong
chạy cho được hoản dịch. Biết là có hỏi lý do tại sao cũng bằng thừa, tôi nhìn
đăm chiêu ra đường:
-
Hai bác có ý kiến gì về chuyện này không?
Tường
cười gọn bân:
-
Ba mẹ tao biết chuyện này lâu rồi, mầy biết tính ổng bả rồi, ai nấy đều dễ lắm.
Tôi
uống cạn chút cà phê còn sót lại trong ly, nghĩ tới chuyện Tường nói yêu Chiêu,
bỗng dưng thấy cà phê hôm nay đắng lạ lùng. Lá me bay phất phơ theo chiều gió,
treo lơ lửng giữa trời, đám con gái qua đường chạy đuổi theo cười giòn giã, cả
hai thằng cũng cười theo. Tôi ở lại chơi với Tường thật khuya, chuyện nào cũng
nói cho nhau nghe nhưng cả hai đều không nói gì về Chiêu. Tôi cứ loanh quanh
trong đầu chuyện Tường vào lính trên đường về. Gần giữa đêm, Sài Gòn sắp tới
giờ giới nghiêm, thành phố vắng tanh theo từng ngọn đèn đường vàng le lói mù mờ
sau những hàng cây rậm lá.
Thứ bảy, tôi theo Tùng, thằng bạn mới quen
cùng học năm đầu Hóa học Phú Thọ về Tầm Vu chơi. Nhà Tùng ở đầu phố chợ, cách
bến xe đi Sài Gòn, Long An một hàng cây xê-ri xum xuê lá. Ba Tùng trước là công
chức của tỉnh Long An thời Tây, giờ hưu trí lâu lắm rồi, ông bà hiện có cái
vườn xoài nho nhỏ sau nhà và vài miếng ruộng đang cho dăm ba người bà con xa
mướn. Tùng còn đứa em gái đang học hớp đệ nhị ở Long An, sáng đi chiều về. Tùng
dẫn tôi đi lang thang đầu đường cuối nẻo, tuy là chợ xã nhưng gần giữa trưa mà
vẫn còn đông người. Miệt dưới miền Tây này, Tầm Vu là nơi nổi tiếng có con gái
đẹp nhất vùng. Bác gái, mẹ Tùng, đãi tôi bửa cơm trưa canh chua cá kho tộ ngon
không thể tưởng, ông bà chăm chú nghe nói chuyện nhà tôi, chuyện sông rạch cau
dừa của Ngũ Long biên giới. Lên Sài Gòn, Tùng cùng với một người anh bà con
cùng tuổi, học Luật, quê Long An, thuê một căn nhà cây nhỏ rẽ ở trong đầu hẻm
chợ Nguyễn Tri Phương. Tùng nhiều lần bảo tôi về ở với hắn cho vui, vì hai đứa
học chung một ngành, nhưng tôi lần lựa hẹn thủng thẳng rồi tính. Lần này gặp ba
mẹ Tùng, ông bà cũng kêu tôi như vậy, trong lòng tôi muốn lắm nhưng kẹt nổi
không dám làm phụ lòng ba mẹ Chiêu, vì dù sao tôi cũng còn một mối tình phải
giữ. Gần xế chiều, ba mẹ Tùng đưa hai đứa ra bến xe, chờ anh tài xế đi kêu
khách, tôi đứng nhìn hàng cây xê-ri, đã có vài trái lưa thưa chín đỏ.
Về đến nhà thì Chiêu và Thảo Ly đã có mặt
từ hồi nào rồi, Chiêu đang cười nói gì đó với bà dì trong nhà bếp. Tôi vào sân
sau bằng cửa nhỏ bên hông nên không ai biết, cho đến khi thấy tôi lửng thửng từ
sau đi lên, cả ba người hoảng hồn cùng gọi tên tôi một lượt. Tôi vừa tức cười
vừa lên tiếng chào, mọi người làm ra vẻ giận dữ nhưng đành phải cười theo.
Chiều chưa xế lắm, nhưng hình như trời có vẻ muốn tối sớm, mây đen sầm cả một
góc trời, tiếng còi chuyến xe lửa đêm từ ngoài miền Trung vào nghe văng vẳng xa
xa, con nít túa nhau ra hai bên đường rầy góc Yên Đổ, Lê Văn Duyệt ồn ào gọi
nhau, chờ cổng chận xe khép. Bà dì xách giỏ đi đâu đó, dặn cứ ăn cơm không cần
phải chờ, bọn tôi kéo nhau vào phòng khách, tôi kể chuyện nhà Tùng, chuyện cô
em gái lớp đệ nhị làng Tầm Vu nơi nổi danh gái đẹp. Chiêu im lặng nghe rồi nhìn
tôi cười tủm tỉm:
-
Hèn chi, anh về trễ dữ vậy!
Thảo
Ly bèn phụ thêm:
-
Thảo nào, như anh nói, anh Tùng nào đó cứ nhất định rủ anh về Tầm Vu cho bằng
được.
-
Nhưng theo anh Ngữ thì cô em Tầm Vu có giống như thiên hạ nói không? Chiêu nhẹ
giọng hỏi.
Tôi
cười mà không nói gì hết.
Thuyên
Huy
(Còn
tiếp)
No comments:
Post a Comment