Kẻ Sĩ
Thế là nhà văn Trọng Nhân về hưu
đã được hơn một năm. Chức vụ sau chót của ông khi về hưu là đại tá. Làm “quan
văn” khỏi phải đi B đánh nhau mà được lên tới chức đại tá, tuy chưa đạt như ý
muốn ông cũng hài lòng rồi. Nhưng những ngày tháng nhàn rỗi sống nơi Thủ đô đầy
ồn ào náo nhiệt bức bối khiến ông cảm thấy mệt mỏi hơn khi còn làm việc. Phải
chăng lúc trước vì mê mải ngụp lặn trong vòng bon chen danh lợi nên ông không
có thì giờ nhìn thẳng, nhìn sâu vào cõi nhân gian? Hay ông chỉ nhìn đời qua tưởng
tượng với sự tô son vẽ phấn mầu hồng phụng sựïï cho đám cung đình? Đồng thời
cộng với những eo sèo mè nheo đời thường của vợ con đã làm ông bức bối khó
chịu. Ông chỉ muốn quên đi tất cả để được sống yên thân.
Để khuây khỏa và nhất là để giết thời giờ
- cái thời giờ trống rỗng vô vị của kẻ không biết làm gì mỗi buổi sáng thức
dậy, nhà văn Trọng Nhân đáp xe đò lên miệt núi rừng vùng cao chơi với gia đình
người bạn thân một thời gian thư giãn tâm thần. Ông cũng muốn nhân dịp này viết
một cuốn tiểu thuyết mà ông đã “thai nghén” hàng chục năm. Ông bạn của ông nhà
văn làm nghề dạy học và cũng đã về hưu. Ông không viết văn, viết báo hay làm
thơ nhưng ông là người sính văn chương và quý trọng văn nghệ sĩ. Trong nhà ông
có rất nhiều tác phẩm giá trị từ cổ chí kim, từ đông sang tây như một thư viện
nhỏ.
Ngày ngày chủ khách quanh ấm trà
đàm đạo chuyện đời, chuyện thế sự thăng trầm, chuyện bãi biển nương dâu, chuyện
kiếp người mong manh ngắn ngủi. Thỉnh thoảng họ dẫn nhau vào rừng sâu nghe ngàn
thông reo vi vút nhớ tới câu thơ của cụ Nguyễn Công Trứ: “Kiếp sau xin chớ làm
người, làm cây thông đứng giữa trời mà reo”. Ông nhà giáo cười nói: “Bây giờ
muốn làm cây thông đứng giữa trời mà reo cũng không được đâu ông bạn ạ. Bọn
“tiều phu thời đại” hễ cứ thấy cây nào hơi lớn là đốn liền đem xuất khẩu lấy đô
la”. Ông nhà văn chỉ giòng suối nước trong vắt có những tảng mây trắng lững lờ
trôi dưới đáy, nói:” Vậy thì kiếp sau ta làm con suối kia vậy. Quanh năm êm đềm
hòa tấu khúc nhạc tươi vui muôn thủa cùng trời đất chẳng còn sợ kẻ nào hại”.
Ông nhà giáo lắc đầu:” Ông lại chủ quan nữa rồi. Nhìn giòng suối kia thấy nó
trong xanh như vậy nhưng chứa biết bao độc tố, biết bao hiểm nguy, nhất là
thuốc khai quang mấy chục năm nay chắc gì đã trôi sạch!”. Nhà văn Trọng Nhân
buồn rầu thở dài không nói gì thêm. Đêm đó thao thức không ngủ được, ông sang
phòng khách kiếm cuốn sách đọc giết thời giờ. Ông tình cờ cầm một cuốn sách cũ
bìa đã ngả mầu vàng. Đó là cuốn sử thời chiến quốc bên Trung Hoa. Nhà văn Trọng
Nhân đã đọc luôn một mạch tới sáng...
Tề Trang vương thời chiến quốc nổi tiếng
một ông vua háo sắc đa dâm. Gặp bất cứ người đẹp nào ông cũng tìm cách chiếm
đoạt, bất kểø vợ con ai, nhất là với các quan trong triều đình. Ai có vợ đẹp
con xinh đều không thoát khỏi vòng tay dâm dục của Tề Trang vương. Các quan
trong triều đình muốn thăng quan tiến chức phải đem vợ hiến cho dâm chúa. Tề
Trang vương được bọn gia nô bẩm báo là quan Tể tướng Thôi Trữ có người vợ đẹp
tuyệt trần. Nàng tên Khương thị. Tề Trang vương tìm cách chiếm đoạt. Hai người
thông dâm một thời gian thì Thôi Trữ biết. Thôi Trữ nặng lời trách mắng vợ dâm
loàn. Khương thị chẳng những không nhận lỗi còn trách lại chồng:”Chàng làm quan
đại thần đầy quyền uy trong triều mà còn không dám can ngăn vua một tiếng, huống
chi thiếp là thường dân sao dám trái lệnh vua?”. Nghe vợ nói thế Thôi Trữ giận
lắm âm mưu tính kế trừ khử vua. Một hôm Thôi Trữ bầy đại tiệc tại tư thất rước
vua chủ tọa. Tề Trang vương trong lúc ngà ngà say nổi máu dâm bắt Khương thị
vào phòng ngủ “hầu chăn gối”. Thôi Trữ chỉ đợi có thế ra hiệu cho phục binh
giết Tề Trang vương liền. Giết vua xong bước ra đại sảnh, trước mặt văn võ bá
quan, Thôi Trữ tuyên bố Tề Trang vương bất thần bị bạo bệnh qua đời và ủy cho
Thôi Trữ kế vị ngai vàng. Trước sự kiện kẻ bề tôi giết vua cướp ngôi như vậy mà
các quan lớn nhỏ trong triều đều khiếp sợ đến độ hèn hạ cúi đầu răm rắp nghe
theo, không một lời phản đối.
Nhằm khuất phục nhân tâm Thôi Trữ áp dụng
chính sách tàn bạo đểø trị người. Kẻ nào ho he bất tuân lệnh vua giết liền. Cả
nước hoang mang sống trong lo âu sợ hãi. Chỉ có một người không sợ, đó là Thái
sử Bá, một quan chức trong triều không quyền thế không vây cánh chỉ chuyên làm
công việc viết sử triều đình.
Thái sử Bá viết vào pho quốc sử rằng ngày
đó, tháng đó, năm đó Tề Trang vương gian dâm với vợ Thôi Trữ bị Thôi Trữ giết
và đoạt ngôi vua. Thôi Trữ cho triệu Thái sử Bá vào cung hỏi:” Ta có phải là
vua không?”. “Hiện nay là như vậy nhưng ngài vẫn là kẻ tiếm vị”. “Ta ra lệnh
ngươi có tuân không?”. “Phải thì tuân, trái thì không”. Thôi Trữ ngưng chút
nói: “Vì Tề Trang vương là hôn quân nên ta phải trừ khử. Nay ta ra lệnh cho
ngươi phải viết lại trang quốc sử như thế này: Tề Trang vương bị bạo bệnh đột
ngột từ trần, các quan văn võ trong triều thấy tể tướng Thôi Trữ là người tài
đức bèn suy tôn làm vua”. Thôi Trữ cho Thái sử Bá một tuần lễ suy nghĩ rồi viết
lại sử trình cho vua. Thôi Trữ cũng không quên hứa hẹn sẽ thăng quan tiến chức
cho Thái sử Bá, đồng thời cũng kèm theo lời đe dọa trừng phạt nếu làm trái ý
vua. Một tuần sau Thái sử Bá đem trình Thôi Trữ bản văn viết sử như cũ và có
thêm một đoạn như sau: “Việc viết sử là việc trọng đại của quốc gia truyền lại
cho các đời sau. Vì vậy người viết sử phải tôn trọng sự thật, dù có sấm sét búa
rìu đánh xuống đầu cũng không thể đổi trắng thay đen, cũng không thể viết xấu
thành tốt, trái thành phải. Đầu ta có thể chặt nhưng chữ của ta không thể sửa”.
Trước sự cương quyết của Thái sử Bá, Thôi Trữ giận lắm truyền đem trói lại chặt
tay trái nhà viết sử để khi nào đổi ý sẽ tha. Mặc cho máu chảy ròng và đau đớn
tột cùng Thái sử Bá vẫn nghiến răng chịu đựng, không một tiếng rên la kêu xin.
Mấy ngày sau thấy thái độ Thái sử Bá vẫn không đổi, Thôi Trữ truyền chặt tiếp
bàn tay phải. Thái sử Bá vẫn nghiến răng chịu đựng. Trước khi nhắm mắt lìa đời
Thái sử Bá nói: ” Bạo chúa chỉ giết chết được thân xác ta thôi, còn chữ của ta
vẫn tồn tại mãi với non sông”.
Thái sử Bá chết, Thôi Trữ cho người em Thái
sử Bá là Trọng lên thay và ra lệnh viết lại sử. Hạn trong một tháng phải viết
xong. Nếu không chịu tuân theo ý vua sẽ đầu rơi máu chảy, chết thê thảm như
người anh. Thái sử Trọng không hề nao núng sợ hãi vẫn viết như người anh và còn
“phụ chú” thêm: ”Người viết sử phải tôn trọng sự thật, phải viết lên sự thật,
không sẽ bị các thế hệ mai sau chê cười khinh bỉ, lưu xú ngàn năm! Con người ta
chỉ có một lần chết nhưng không thể để cái tên mình bị chết mãi trong sử sách!
Ta có thể làm ma không đầu chứ không thể sống mang cái đầu trên thân thể hèn hạ
nói sằng viết bậy nịnh hót kẻ cường quyền!”. Thái sử Trọng bị cắt lưỡi khoét
hai mắt trước khi bị chặt đầu bêu giữa chợ. Tới lượt người em thứ ba của Thái
sử Bá là Quý được phong chức và bắt phải viết lại sử theo ý của Thôi Trữ. Bà mẹ
Thái sử Quý thấy hai người con lớn của mình đã bị giết nên quá sợ hãi hết lời
khuyên can con đổi ý thay lòng viết theo lệnh vua để bảo tồn sự sốngï. Vợ của
Thái sử Quý cũng khóc lóc van lơn chồng. Một số quan đã đến tận nhà khuyên răn
Thái sử Quý. Tới ngày hẹn Thái sử Quý vào triều đưa lên vua bản viết sử. Tất cả
các quan trong triều lo âu hồi hộp sợ cho mạng sống của Thái sử Quý. Họ thầm
mong lần này Thái sử Quý sẽ đổi dọng ca ngợi vua. Nhưng Thái sử Quý vẫn viết y
hệt hai người anh mình và thêm:”Viết sử phải viết đúng sự thật không được xuyên
tạc lịch sử. Công tội, phải quấy của người làm lịch sử phải được ghi chép rõ
ràng, không thể vì chút bã danh lợi mà đổi trắng thay đen, nhắm mắt viết theo
lệnh kẻ bạo quyền. Tay ta có thể bị chặt, hai mắt ta có thể bị khoét, lưỡi ta
có thể bị cắt, đầu ta có thể bị lià khỏi cổ nhưng chữ của ta sẽ tồn tại mãi
cùng thời gian. Bây giờ ta đã sẵn sàng chờ cái chết, hãy đem ta ra pháp
trường!”. Thôi Trữ lần này bỗng rùng mình khi đọc xong những giòng chữ đầy
chính khí, đầy hùng khí “uy vũ bất năng khuất” của người viết sử trước cái chết
vẫn hiên ngang vẫn oanh liệt ngửng cao đầu không hề sợ hãi. Lão nhìn Thái sử
Quý một lúc lâu, trong khi cả triều đình run rẩy sợ hãi, rồi sau cái thở dài,
đưa trả lại pho quốc sử và nói:”Thôi, ta tha cho ngươi. Ngươi hãy cầm pho quốc
sử này trở về nhà đi. Từ nay sự thể tốt xấu ra sao ngươi cứ việc viết cho đúng
sự thật. Oâi, nếu ta cứ tiếp tục chém giết mãi thì đến bao giờ mới hết. Hễ cái
đầu này rụng xuống lại có cái đầu khác mọc lên. Máu liên tiếp chẩy nơi pháp
trường đã làm lưỡi gươm ta chùn lại! Sĩ khí ngút trời của bọn ngươi đã làm trái
tim ta run rẩy sắt se buốt nhói. Đàn áp tàn bạo rõ ràng là phi chánh nghĩa,
không thành công!”
Sau đó Thôi Trữ truyền lệnh cho Quý tiếp
tục giữ chức quan viết sử của triều đình và phục hồi danh dự địa vị cho hai
người anh. Cả triều đình - một lũ quan lại thuộc phường giá áo túi cơm tham
sống sợ chết - bấy giờ mới dám thở phào nhẹ nhõm.
Thái sử Quý ôm tập quốc sử hân hoan
phơi phới ra về. Chân lý sáng ngời đã thắng! Giữa đường gặp người bạn chí thiết
là Nam sử Thị, hỏi đi đâu? Nam sử Thị đáp:” Tôi đem sẵn giấy bút mực theo đây.
Nếu anh bị giết thì tôi tình nguyện nối tiếp theo anh làm công việc viết sử”.
“Anh không sợ chết sao trong khi còn mẹ già con thơ?”. Nam sử Thị hỏi lại:” Thế
còn anh không sợ chết sao? Ôi, kẻ sĩ phu trong lúc nước loạn nhân dân đau khổ
lầm than mà lại tiếp tay với kẻ cường quyền dùng cây bút tâng bốc nịnh bợ bọn
chúng và xuyên tạc lịch sử hòng kiếm chút danh vị lợi lộc thì đâu còn xứng đáng
sống trên đời!”. Hai người ôm chầm lấy nhau cất tiếng cười ha hả vang cả trời
đất.
Nhà văn Trọng Nhân đọc xong những trang sử viết về anh em Thái sử Bá
thời chiến quốc thì gà rừng đã cất tiếng gáy rộn rã chào bình minh từ trong
rừng vọng ra. Ông thở dài. Bất ngờ những giọt nước mắt hiếm hoi – cả đời ông
chưa hề xẩy ra - tuôn trên khuôn mặt héo hắt già nua. Cả một đời người ông đã bịt mắt bịt tai, đã cúi đầu chạy theo kẻ cường
quyền kiếm chác chút bã cung đình để có danh vọng địa vị, cơm no áo ấm. Ông
dùng cây bút của mình đổi trắng thay đen tấn tuồng lịch sử. Tệ hại nhất là ông
đã nịnh hót, tâng bốc, ca tụng những kẻ tội đồ của dân tộc thành anh hùng cứu
nước vĩ đại! Ông đã đánh mất sĩ khí của kẻ sĩ từ lâu và sống một cuộc đời
hèn hạ, tệ hại. Bây giờ thì ông già rồi, tất cả mọi việc đều muộn đều lỡ mất
rồi. Ông nghĩ tới cuốn tiểu thuyết ôm ấp bao năm trời chưa viết. Ông quyết
chống lại cái già. Ông quyết giành lại thời gian đã mất. Lần này ông sẽ thay
đổi hết từ tâm trạng nhân vật tới hoàn cảnh đất nước, nhất là sự khốn cùng của
đại đa số tầng lớp nhân dân nghèo khổ, sự sa đọa của tầng lớp lãnh đạo và sự
thoái hóa tụt hậu của đất nước. Ông sẽ nhìn thẳng nhìn sâu vào cõi nhân gian và
viết ra tất cả sự thật. Đời ông bây giờ còn gì để mất nữa đâu. Nhìn tấm gương
sĩ khí của người xưa ông thấy ngượng ngùng nhức nhối. Ông thực sự đau khổ, thực
sự hối hận. Ông đang bị con người thực của ông dày vò. Ông chợt nghĩ tới những
kẻ mệnh danh là kẻ sĩ thời nay. Bị đầy đọa cưỡng chế tù đầy nhục nhã khốn khổ hết
cả đời người, thế mà khi được kẻ cầm quyền vuốt ve bố thí cho chút ân huệ cuối
mùa cũng cúi đầu răm rắp nhận lãnh! Rồi còn những kẻ làm tới tướng quốc thề
thốt không đội trời chung với bọn thù, cuối đời vì chút danh chút lợi đã hèn hạ
cúi đầu xin làm tôi mọi. Còn biết bao kẻ nữa đã tự đánh mất mình. Hay là thời
đại này đám sĩ phu không còn sĩ khí? Hoặc bọn họ đã ăn tươi nuốt sống vào bụng
và đi tiêu chảy từ lâu cái sĩ khí? Vừa lúc đó ông bạn nhà giáo gõ cửa phòng mời
ra uống trà buổi sáng.
Thấy bạn, nhà văn Trọng Nhân hỏi ngay:” Ông nhìn mặt tôi xem có gì thay
đổi không?”. Ông nhà giáo còn đang ngỡ ngàng chưa biết trả lời sao thì ông nhà
văn nói tiếp:” Phải, ông thấy mặt tôi khác hẳn và sáng ra phải không? Vâng,
đúng như vậy. Trên mặt tôi giờ đây đang xuất hiện bộ mặt thật của một con
người”.
304Đen - Llttm
No comments:
Post a Comment