Quê tôi Cai Lậy quốc
Từ chợ Kênh 12 chiếc ghe bầu nhỏ lợp mui lá - tôi bơi dầm
mủi, cha tôi chèo mái lái đuôi – thả xuôi theo con nước lớn, nhẹ trôi vô miệt
Kênh Bà Bèo, Cống Huế, bán hàng rong tạp hoá. Cha con tôi không bán hết hàng,
cũng phải chống mủi ghe quay về cho kịp con nước ròng.
Thả thuyền trôi sông, tấp vô vài cái bến nước
cạn, thấy có dân đi cấy mướn hay vần công đang rửa ráy, coi có ai mua
hàng chợ chiều bán rẻ cho bà con, vớt vát vài ký đường tán, muối hột, vài quặng
dầu lữa hay kẹo bòn bon cho con nít…
Cha tôi hối con tháo dây buột ghe, vén lục
bình, chống sào ra giữa lòng con kênh đang rút nước.
-“Hò ơ….Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi
-Buôn bán không lời… hò ơ… chèo chống mõi mê.
Hò ơ…!”
Ngã ba rạch tẻ, cha ra lệnh cho con ép mái
dầm hướng mủi ghe vô Rạch Nàng Chưng; vô đó coi nhà vườn có ai bán soài, ổi,
cam, quít gì không, mua bậy ba mớ trái cây vườn, để kịp ra Ngã Ba Kênh Xáng bán
chợ đêm.
Hôm nào trời còn sớm, nước ròng chưa rút hết
mức, hai cha con ráng sức bơi thêm chèo mau ra chợ đêm Thiên Hộ, nhiều người
bán kẻ mua hơn. Chợ đêm này đông người họp nên xuồng ghe tấp nập, bà con trong
miệt Tháp Mười đổ về, mang cá mắm ra trao đổi muối đường, đồ hàng bông, mua cây
kim sợi chỉ, vải đen may quần áo bà ba, khăn rằn quấn cổ.
Đèn chai, đèn dầu lữa lập loè lập loè
nhấp nhánh như đóm bay trên mặt nước; ghe nhà giàu họ có đèn măng xông sáng
trưng, coi mát con mắt hơn đèn khí đá khịt lữa xanh xè xè chao đảo trước ngọn
gió đồng. Có ghe lớn họ vặn hát máy trong khoang, văng vẳng tiếng ca cải lương
vọng cổ, chen lẫn tiếng bạn hàng ồn ào ăn uống, buôn bán, trả giá tính tiền.
-“Đồng bạc này xé làm đôi
Thối bậu 5 cắc, phần tui nữa tiền
Nếu mà tui bậu còn duyên
Hai tờ nối lại thành nguyên một đồng”.
Cha con tôi đêm khuya khoắt mới quay ghe về
nhà. Mẹ tôi đã đóng cửa tiệm, nhưng còn để đèn leo lét trong nhà; bên ngoài cầu
ván một ngọn đèn bảo lắc đòng đưa theo ngọn gió đêm, nhưng cũng đủ cho cha con
tôi thấy đường cho ghe vô bến.
Mẹ tôi không theo ghe, ở nhà trông coi cửa
tiệm hàng xén bên chợ Kênh 12. Bà vừa bán hàng lặt vặt vừa giữ con, vừa trông
chừng hàng dự trử gối đầu mà mỗi tháng một chuyến do cha tôi ra chợ quận Cai
Lậy bổ hàng về. Vợ chồng trẻ với hai đứa con còn nhỏ, có nghề buôn bán, dù ở
quê nên đủ sống qua ngày, không tay lấm chơn bùn.
Tôi đã 8 tuổi đầu nhưng chưa cắp sách đến
trường học, vì giữa buổi giao thời chữ nho ít người theo học, còn chữ quốc ngữ
chưa thông dụng. Con nhỏ em gái cũng đã 5 tuổi nhưng tối ngày lúc thúc bên mẹ.
Là con nít quê, tôi được coi là đủ lớn để được theo cha học nghề buôn bán.
Chợ Kênh 12 lúc đó còn nghèo lắm, dân cư từ
tứ xứ đổ về, thời buổi không yên nên bọn con nít như tôi không đi học ở nhà,
phải phụ giúp cha mẹ.Tôi may mắn hơn các trẻ khác, khỏi lội ruộng chăn trâu,
dang đầu ngoài nắng, mò cua bắt cá…
Thấy người khác có hát máy, cha tôi trong một
chuyến đi bổ hàng ngoài chợ Cai Lậy cũng muốn đua đòi, mua về một cái máy hát
đĩa quay tay lên dây cót (dây thiều), hiệu Columbia chế tạo từ bên Tây.
Đó là một cái máy có bộ phận quay đĩa, mang
cần gắn kim sắt nối qua cái loa phát tiếng, được bắt ốc gắn chắt trong thùng
cây, bộc vải dầy. Nấp thùng mở ra được do có bản lề; lấy rời ra hoặc chống đứng
một mặt nhờ hai cái then chịu, có mốc điều chỉnh độ thấp cao. Chính giữa thùng
máy là một chiếc hộp sắt và bộ cốt lõi dây thiều bằng thép mỏng; bị ép chặt lại
vòng xoay; lên dây cót quay tay, từ cần quay bên ngoài.
Khi lên dây cót, dây thiều bị ép tròn lại; nó
bung ra làm lực đẩy quay cái trục, làm quay tròn bàn quay; mặt bên trên để nâng
đĩa hát, quay vòng theo chiều kim đồng hồ. Trước khi khởi độngmáy người ta dùng
cái tay quay, đẩy vô lổ bên hông cho ăn khớp với bộ phận lên dây bên trong, rồi
lên dây cót vừa cứng tay. Cái loa kèn nằm trên cần mang đầu kim; có chốt giữ để
thay kim cũ mòn, đổi kim mới.
Đĩa hát đặt lên bàn quay cho chạy tự do để
canh vòng quay tốc độ; nhanh hay chậm để chỉnh, hảm bớt lại hay lên thêm dây
cót. Một lúc khi máy chạy êm, đĩa quay vòng đều, mới nhẹ nhàng đở nhẹ cần mang
kim, thả nhẹ mũi kim xuống mặt đĩa; vòng lớn bên ngoài cùng không ghi âm. Những
vòng xoay từ ngoài vào trong trên mặt đĩa đều ghi âm, nên khi mũi kim chạm vào,
kim nhẹ nhàng lên xuống vạch ghi âm, chuyển tần số âm thanh vào loa kèn, phát
thành ra tiếng.
Đĩa hát vào thời đó gọi là đĩa đá hay đĩa
than, lớn bằng nấp vung nồi cơm, màu đen thui cứng còng, nhưng cũng dễ bể dễ
trầy.Bao đựng đĩa bằng giấy bồi, có in hình tên hảng thâu thanh như Pathé hình
con chó thổi kèn, Asia, Hoành Sơn…in hình màu tên tuồng, bài hát, tên tài tử và
tên soạn giả. Thời trước ông bà mình không để từ “sĩ” trước tên diễn viên, nhạc công (ca sĩ, nhạc sĩ),
vì cho rằng “xướng ca vô loài”; sĩ, nông,
công,thương...phân biệt rõ ràng theo giai tầng xã hội. Soạn giả là
người viết, đặt “bài bản sao” cho các bản cổ nhạc, không phải là tác giả sáng
tác; ông Cao Văn Lầu mới là người đầu tiên sáng tác ra bản vọng cổ Dạ Cổ Hoài
Lang 2 nhịp.
Trước khi hát phải chùi bụi bậm, đĩa dơ hát
một hồi buị rác dính đầy mũi kim. Đĩa bị trầy chạy kim mòn, nhảy đứt đoạn, hay
cà lăm tiếng nghe lập đi lập lại, chừng nào cho kim nhảy qua mới thôi. Lúc mới
chạy, dây thiều căng, tiếng hơi nhanh, giọng the thé; để chạy lâu quên lên dây
cót, dãn dây thiều, âm thanh xuống thấp rè rè, nghe như hụt hơi!
Tôi là con chủ máy hát vừa ngồi nghe, thay
đĩa theo thứ tự tuồng hát, mài kim, thổi bụi, thoa dầu bóng lên mặt đĩa, lên
dây thiều không để dãn hết tua..; một nhơn vật vô cùng quan trọng, có lúc được
thưởng có khi ăn đòn!
Dù là trí óc hãy còn non nớt, nhưng tôi cũng
biết cái máy hát lên dây thiều hồi đó là một sáng chế văn minh nhứt thời đại;
tự nó phát ra tiếng nói, tiếng ca tiếng đờn; mang đi đâu hát cũng được. Ngoài
cái việc rớ mó, dù chưa đi học chữ, học nghề mà tôi đã trở thành chuyên viên;
ngoài cha tôi, không ai dám đụng tới cái máy hát!
Tôi mê vọc cái máy hát, mê tiếng hát tiếng
đờn, vắng một bữa ăn cơm không ngon! Nghe riết rồi mình thuộc lòng luôn bản
hát, tiếng đờn lời ca, tên đào kép, tên tuồng hát bộ, cải lương.Nhờ đó mà sau này lên Saigon tôi không là
một gã trai quê, ai bàn chuyện văn chương thơ phú (cải lương!) tôi không thua
ai.(Nhưng không dám nói leo ăn cơm hớt, sợ nói trật chìa ra ngoài đề!).
Từ khi có cái máy hát gia đình tôi được bà
con chòm xóm trọng vọng, hết sức (?). Cha tôi trước là học trò chỉ học chữ Nho,
thuộc Tam Tự Kinh, lấy nhơn chi sơ tánh bản thiện làm gốc, nay lên chưn (!); bà
con phong lên chức cậu, cậu Bãy Tân Thời! Biết mình bảnh tỏng cha tôi thay đổi
cách ăn mặc cho ra vẻ thành thị, ăn nói có vần có điệu có thơ có văn, để
khi ra ngoài chợ quận lỡ có người kêu bằng thầy Bãy thì không mắc cở là mình là
dân quê, làm nghề thương hồ, bán tiệm chạp phô hàng xén!
Có chút tiền lời nào ổng ra chợ quận
Cai Lậy, về thành phố Mỹ Tho mua thêm chục đĩa hát mới, sách truyện Lục Vân
Tiên, Thạch Sanh Lý Thông, Con Tấm Con Cám… Đi xa biết chuyện thị thành, giải
nghĩa mặt chữ theo quốc ngữ, ngâm nga vài câu thơ Sáu Trọng, nói thơ thầy thông
Chánh, kết bạn tài tử đờn ca xướng hát, bài bản Dạ Cổ Hoài Lang hay hoà đờn
khúc hành vân lưu thuỷ.
Khi về làng có chuyện mà nói, nào là đi
coi hát gánh hát Thầy Năm Tú ngoài chợ Mỹ, thấy mặt cô đào Phùng Há, Năm Phỉ,
kép Tư Chơi, Năm Châu…gánh Đồng Ban, Phước Cương…chuyện đào kép hát Nam Kỳ Lục
Tỉnh..v…v….Làm bà con thân thuộc làng trên xóm dưới phục lăn. Ông thường xuyên
làm khách mời đám cưới đám giổ, đám ma; làm người thuyết khách đại tài(!).
Cái máy hát được chủ đám mời, cho người gánh
thúng tòng teng hai đầu: một bên là cái máy, bên kia là chồng đĩa hát. Xứ quê
mùa ít có người học cao, nghị luận bàn thơ văn, chưa có thầy đờn, nên nghe hát
máy là phương tiện văn nghệ truyền thông, giải trí đặc sắc thời bấy giờ.
Đi buôn, đi bán không lỗ thì lời
Đi ra cho thấy mặt trời mặt trăng
Đi ngày đàng học một sàn khôn, cha tôi chống
sào mát mái, bất chấp nước lớn nước ròng, thả thuyền trôi theo dòng sông Ba Rài
đi xa hơn về miệt dưới, qua khỏi cầu Cai Lậy. Xuôi nam qua Cẩm Sơn, Xuân Sơn,
Hội Sơn, ghé Ba Dừa, ra cửa sông Tiền, lặn lội tuốt qua cù lao Năm Thôn Ngũ
Hiệp.
Vào những năm 30, 40, thôn xã quê nghèo: trên
bờ đường đấp bùn lầy trơn trợt, cầu khỉ lắt lẻo bắt qua kênh rạch, dưới sông
vắng vẻ nhà cửa mái tranh thưa thớt, hai bên bờ vắng lặng…. Nên một chiếc
thuyền nhỏ, thả trôi theo con nước xuôi, nhẹ mái chèo trên dòng sông bát ngát
mênh mông (đối với đứa trẻ nít như tôi con sông Ba Rài lúc đó lớn lắm).
Tôi theo cha trên ghe bán hàng rong: chiếu
bó, giỏ đệm đóng xấp, tập sách thơ văn, bài hát, vỡ học trò, ve mực chai thuỷ
tinh, mấy ống mực viên, mực bột màu xanh màu tím, mấy cái thùng thiết chứa đựng
bánh khô kẹo bột, khạp đựng đường, hủ chứa muối hột… thùng thiết dầu hôi (có
cái bơm tay rút dầu ra bán lẻ từng lít để đốt đèn hột vịt hoa kỳ).
-Hò ơ…Nước trong rữa ruột sạch trơn
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây
Rày doi, mai vịnh vui vầy
Ngày kia hứng gió đêm này chơi trăng
Mõt mình thong thả làm ăn…
(thơ Lục Vân Tiên)
-Hò ơ…Gió thổi hiu hiu,
Mặt trời chiều sắp lặn
Ghe tui bán chiếu chưa có ai mua
Tội người dệt chiếu đang chờ…
Thân tôi sông nước… nắng mưa… sá gì!…hò ơ!
Không biết cha tôi có gian buôn bán ra sao,
chớ nhiều lần ổng vác bó chiếu lên bờ, cắm sào buột ghe, để thằng con nằm
chèo queo muỗi cắn, chờ ông o mèo hay gò gái cả buổi quên con, còn doạ
đừng mét má mày, dìa nhà tao cho mày nghe máy hát cả ngày!
-” Cho con nghe hát tuồng Mỹ Lệ Dung nghe
cha?”, tôi bắt hứng cao giọng ca lối theo cách của ông kép hát Bãy Cao:
– “Mỹ Lệ Dung…
có phải em là Nguyệt Thu Nga?…. mà sáu năm qua nó đã đơm bông nở nhuỵ trong quả
tim ….này?”
Chưa vô hết nhịp hò, cha tôi cú đầu tôi một
cái cốc, nghe đau điếng; chắc ổng nghĩ rằng tôi dám chọc quê!
Có lần cũng trên dòng sông cũ, cha tôi không
ghé lại bến nước xưa nữa, mà cất giọng hò áo não:
-Hò ơ…Bậu nói với qua rằng bậu không có hái
lựu bẻ đào.
Vậy chớ lựu đâu bậu bộc, còn đào nào bậu cầm
tay… Hò ơ….
Trên bờ nghe có tiếng đàn bà hò đáp:
-Hò ơ…Con thơ tay ẩm tay bồng
Tay dắt mẹ chồng đầu đội thúng bông…
…Ai ơi tui đâu có phụ lòng
Ngặt vì có câu tứ đức… ba chữ tam tòng tui
phải theo… Hò ơ…
-Hò ơ…Sông sâu sào vắn khó dò
Muốn qua thăm bạn, sợ đò không đưa….
……Không đưa mượn chén ăn cơm
Mượn ly uống rượu, mượn đờn khảy chơi…. Hò ơ…
………………………
Phía nam Cai Lậy, đất giồng, nhờ phù sa sông
Tiền Giang bồi đấp lên gò cao, nhiều sông rạch, miệt vườn cây trái; miền đất
lành chim đậu trên nhánh văn nghệ đờn ca xướng hát, văn chương thơ phú…. Con
gái nhà vườn coi thiệt ngộ, má hồng môi thắm, còn có giọng ca hay hát giỏi.
Nhiều ông thầy đờn lập ra nhóm đờn ca tài tử miệt vườn, dạy học trò con trai
đờn biết đờn cò đờn kìm, con gái ca hát bài bản cổ nhạc. Cha con tôi hay chèo
ghe xuống đây, ham vui nhập đám. Tôi cũng mê coi nhạc đám hát đình, đám cưới…
Trái lại, người ở bắc Cai Lậy sống trên vùng
đất thấp ngập phèn, nước nổi từ Đồng Tháp Mười đỗ xuống, quanh năm nghề làm
ruộng; ít thơ phú văn chương, nhưng thích ăn nói văn hoa có vần có điệu, hát hò
đối đáp, học nghề võ để đánh ăn cướp. Cha tôi có kể chuyện ăn cướp nhà giàu;
bọn cướp ban đêm chèo ghe chài lớn, đến đánh cướp nhà ông bá hộ. Hai bên đốt
đuốt sáng trưng, nổi trống đập thùng thiết nhoi trời, la làng dậy xóm. Ăn cướp
có võ, bên nhà ông bá hộ cũng có thủ hạ giỏi nghề, thanh niên trai tráng trong
làng đến coi ngứa tay, xông vào đánh nhau loạn xạ.
Chuyện ăn cướp thời xưa nhiều khi nói thêm
bớt. Ai đời đi ăn cướp mà hẹn ngày giờ trước? Có chuyện đàn bà con gái biết múa
quyền, đánh roi, hạ gục chúa đảng?! Làng này tổ chức đánh cướp làng kia để thử
nghề gia truyền, phái võ? Ăn cướp mà lên tiếng hành hiệp, cướp của nhà giàu
chia cho người nghèo? Những nhơn vật anh chị du côn như Bãy Viễn, Ba Dương,
Mười Trí cũng có lúc bỏ căn cứ Rừng Sát chạy về Đồng Tháp Mười thu hút thêm
nhơn lực, kết nạp thêm “anh hùng hảo hớn”!
Dân Cai Lậy xưa là con cháu di dân từ đàng
Ngoài xứ Quảng vào; vừa chuộng võ để có sức thủ thân khai phá miền đất mới, vừa
chuộng văn chương thi cử theo lối học trò nhà Nho. Trong lịch sữ di dân mở ấp,
vùng Cẩm Sơn, Long Trung(Ba Dừa), Vỉnh Kim nhiều người học cao, đỗ đạt
làm quan. Miệt Nhị Quí, Tân Hội có nhiều thầy nghề võ.Tân Bình, Mỹ Hạnh Trung
có nhiều vị danh sư tu hành. Mỹ Phước Tây, Tân Hội là nơi bưng biền ẩn núp
chống Tây…
Bởi vậy hồi thời kỳ ông Nguyễn Văn Tâm
ngồi chủ Quận – lời cha tôi nói lại – Hùm Xám Nguyễn Văn Tâm là người thủ
đoạn, biết tâm lý quần chúng, chia dân để trị.
Ông ta lập ra hai hội thi văn đàn và võ đài
ra để chiêu dụ người tài. Tổ chức thách đấu võ đài, lựa võ sĩ bổ sung binh
lính, lập hội thi văn đàn kiếm sĩ phu ra giúp việc trị dân. Người nào thuận
tình, ông Quận cho làm quân dưới trướng, quân sư dưới cờ; ai nghịch ý thì ông
tìm cách tiêu trừ, trù dập; thiệt là tiện lợi đôi bề!
Con nhà võ hay thách đố võ đài như đá gà
không cho rót, trâu báng không chịu lùi. Nhưng vì chí thú làm ăn, nhiều thầy võ
giỏi con nhà nòi chỉ tập luyện món nghề gia truyền giữ làng bắt cướp, ra tay
khi hữu sự.
Phía nhà văn, hay tranh hay cãi; tài tử ca
đờn, thi thơ, khen chê chỗ dỡ chỗ hay. Nhưng quá sợ huý kỵ, ngờ vực tư tưởng
chống thực dân, nhà nho chỉ dám lẫy Kiều, nói thơ Lục Vân Tiên giới bình dân ai
cũng thuộc qua ít nhiều:
Dè chừng, hoặc làm cao:
Anh hoa phát tiết ra ngoài
Ngàn thu bạc mệnh một đời tài hoa
Trông người lại nghĩ đến ta
Một dày, một mỏng, biết là có nên??? (Kiều)
Chê bai:
Rằng hay thì thật là hay
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào? (Kiều)
Thích chỗ vui chơi ăn nhậu:
Quán rằng: “Thịt cá ê hề”,
Khô lân chả phụng bộn bề thiếu đâu.
Kià là
thuốc lá ướp ngâu,
Trà ve tuyết điểm, rượu bầu cúc hương.
“Để khi đãi khách giầu sang,
“Đãi người văn vật, đãi trang anh hùng.”
(Lục
Vân Tiên)
Đờn ca xướng hát:
Tân nhạc cải” xà lách” (cải cách),Do, Ré, Mi,
Fa , Sol, La, Si,
7 nốt (notes) đờn, vô còn trật nhịp.
Vọng cổ “tạp tàng”, Hò, Xự, Xang, Xê, Cống,
5 chữ nhạc, hát vẫn sai câu (6 câu)
Nhưng có một câu đối bình dân trứ danh, người
Cal Lậy còn truyền lại:
“Ông mượn cháu, đi giồng dứa, mua dừa giống,
về ông mượn.”
Câu đối đố này vừa đối từng chữ trong câu:
chữ sau đối với chữ trước, chữ cuối câu đối với chữ đầu câu, tròn vo!. Một câu
nói bình dân không văn hoa chữ nghĩa, không nói bóng nói gió: mãi về sau này
tìm kiếm qua văn học, tôi vẫn chưa nghe có một câu nào đối địch lại?
Dân Cai Lậy có nhiều chuyện kể lúc trà dư tửu
hậu, nhàn rỗi công việc đồng áng. Hoặc tụm năm tụm ba, ngồi chồm hổm kiểu nước
lụt trong nhà chòi, uống UTQ (uống trà quạu,) nhai đường tán, chờ con nước lũ
rút ra sông, kể chuyện “Cai Lậy quốc” xứ mình:
–Cai Lậy đất
của anh hùng, địa linh nhân kiệt thời chống Pháp.Tục truyền bốn vị
anh hùng có tên là Long, Thân, Rộng, Đước,
là nghĩa quân chống Tây vào những năm cuối thế kỹ XIX. Quân Pháp nhiều lần mua
chuộc, treo giá, vây bắt không được,vì Bốn Ông võ nghệ cao cường, còn có phép
phân thân ẩn trốn, phi thân chống sào tre nhảy qua sông rạch dễ dàng (?).
Dụ hàng không được, Tây mới bày kế bắt giữ mẹ
Bốn Ông làm con tin, vì trọng chữ hiếu, Bốn Ông ra hàng, bị Tây xữ chém, bêu
đầu ngoài chợ Cai Lậy. Người dân lén lấy xác, đem chôn cất, lập miếu thờ bốn vị
anh hùng vị quốc vong thân, tôn kính danh xưng là Tứ Kiệt.
Có lẽ vì lý do chính trị, vì dân chúng quá
tôn sùng cúng bái Tứ Kiệt Anh
Hùng, mãi đến năm 1997 chính quyền sở tại mới cho phép trùng tu lại
Lăng Tứ Kiệt như bây giờ.
-Hùm Xám Cai Lậy. Khoảng
những năm 30, 40 của thế kỹ trước, chủ quận
Nguyễn Văn Tâm, cứng rắn đến tàn bạo truy lùng, tàn sát Việt Minh
thẳng tay. Nên ông có biệt danh là “Cọp Cai Lậy”
hay “Hùm Xám Cai Lậy”. Năm
1945 trên đường trốn thoát về Mỹ Tho, ông bị Thanh Niên Tiền Phong bắt tại chợ
Đệm, chặt đứt một ngón tay trỏ.
Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm (từ ngày 23
tháng 6, 1952 đến ngày 7 tháng 12, 1953) dưới trào Vua Bảo Đại, là người thân
Pháp chống Việt Minh triệt để.
Ngoài ra có thêm môt truyền kỳ giai thoại hay
về các cụ đồ nho chơi chữ:
Ông Hương nghị Sảnh ở Ba Dừa là người
thâm nho, giỏi văn chương thi phú, hay làm câu đối chơi chữ nổi tiếng trong
vùng. Ngày Quận Tâm làm lễ nhận chức Chủ Quận Cai Lậy, Hương nghị Sảnh đem tặng
bức hoành phi viết bốn chữ “Đại điểm
quần thần”. Quận Tâm treo bức hoành phi ấy hơn một năm mới phát
hiện “Đại điểm quần thần”.
Nghĩa bóng là “quan lớn trong cánh quan lại”, nhưng dịch ra theo từng chữ nghĩa
đen là “chấm to bầy tôi”, nói
lái là “chó Tâm bồi Tây”.
ĐẠI
là to
ĐIỂM
là chấm
QUẦN
là bầy
THẦN
là tôi
ĐẠI
ĐIỂM
là “chấm to”, nói lái lại là “chó Tâm”
QUẦN
THẦN là
“bầy tôi”, nói lái lại là “bồi Tây”
Quận Tâm tức lắm, quan chủ quận tìm đến nhà
và đem tên cúng cơm của cha ông Hương Sảnh là Mười Trận ra thách đối
“Mười trận thất cả mười”.
Những chuyện kể về sau này:
–Trước năm
1975 ông xã trưởng Long Trung (Ba Dừa) tên là Ba Săng, nổi tiếng là “Cọp Ba
Dừa” do Việt Cộng đặt. Ai là người được Việt Cộng đặt tên là “Cọp”
thường bị chúng căm thù bất cộng đáy thiên, nhưng cũng sợ bóng sợ vía, hồn phi
phách tán!
–Việt Cộng
pháo kích vào trường Tiểu Học Cai Lậy. Hồi thời Việt Nam
Cộng Hoà lăng Tứ Kiệt được di dời về một bên mặt thành Chi Khu Cai Lậy, đối
diện trường Tiểu Học. Có câu chuyện truyền khẩu, rằng Việt Cộng muốn lấy chánh
trị lòng dân, cho người ra cúng bái, cầu khẩn xin xâm ba lần(?) để đánh
quận Cai Lậy. Nhưng Tứ Kiệt linh thiêng không thuận! (mặc dù hồi năm 1870, Bốn
Ông dẫn nghĩa quân về tấn công vào đồn Cai Lậy, đốt dinh Tham Biện). Đến năm
1974 VC pháo kích vào Chi Khu Cai Lậy, đạn rơi vào trường Tiểu Học làm chết
nhiều học sinh.
Sân Trường Cai Lậy
(9 tháng 3 năm 1974)
của thi sĩ Ngô Văn Thọ
“Tôi vẫn nhớ buổi kinh hoàng Cai Lậy
Giặc pháo vào trường học lúc giờ chơi
Tuổi thơ ngây đang đùa giỡn vui cười
Nằm phơi xác miệng còn trơ viên kẹo
Tôi thấy những người mẹ đi lẽo đẽo
Quanh ngôi trường tìm nhặt mớ thịt xương
Gỡ tóc tai, lẫn máu dính trên tường
Của hai mươi chín thiên thần bé bỏng
Tôi đã thấy hai hàng lệ nóng
Chảy không ngừng trên gương mặt xanh xao
Của người mẹ buồn héo hắt khổ đau
Nhận xác con nhờ áo lem mực tím…”.
-Cai lậy còn là quê hương của các nghệ sĩ tài
danh như ca sĩ Hoàng Oanh quê Nhị Quí, thầy đờn cổ nhạc Văn Giỏi người miệt Ba
Dừa.
-Sau 1975, V.C. Lê Văn Phẩm làm Bí thư Tỉnh
Tiền Giang. Đảng bộ tỉnh Tiền Giang thành phần chủ yếu là bần, cố nông. Chín
Phẩm là người dốt, ký tên bằng cách đánh dấu chữ thập, nhưng theo chủ trương
hồng hơn chuyên của Đảng, ông ta giữ chức bí thư Tỉnh Ủy Tiền Giang; gây ra bao
điều cười ra nước mắt: xây dựng, qui hoạch vùng trồng cây, khu kinh tế mới…làm:
“sai đâu sửa đó,
sửa đó có xong đâu
xong đâu nhưng lại sai đấy”.
Sai đâu sửa đấy,
sửa đâu sai đấy,
sai đấy sửa đâu?”
Nhưng có một việc làm hết sức thành công,
đáng “biểu dương” là nuôi cá vồ ao trong trại cải tạo “Vườn Đào” ở xã Mỹ Phước Tây trong
mùa lũ lụt. “Ao cá vồ của cán bộ”nuôi
bằng phân của tù cải tạo; dù nước ngập lụt hết cả trại, nhưng ao cá phải được
“bảo quản” hằng ngày: tù móc sình đấp bờ cao không cho cá thoát ra ngoài, bảo
đảm tù không để thiếu thức ăn cho cá !
…………………………
Cha t ôi là đệ tử của thầy trụ trì và là bạn
đồng đạo với Phật tử chùa Khánh Quới thuộc Xã Tam Bình gần chợ quận, nên những ngày
lễ vía, cha tôi hay ghé chùa lễ Phật.Tuy tuổi hãy còn thơ, nhưng những ngày
tháng đó tôi đã có ý thức”tâm lành
Phật độ”: ở hiền gặp lành, thiện ác đáo đầu qua lời dạy của các
thầy, qua lời kinh tiếng kệ tụng tán:
Nam mô Phật Tổ Di Đà
Độ cho bá tánh nhà nhà yên vui
Cầu cho đất nước nơi nơi
Đồng bào hưởng phước an vui thái bình
Cầu cho thập loại chúng sanh
Vãng sanh siêu thoát, hương linh về trời
Ngày đó tôi không hiểu ông Phật Tổ Di Đà là
vị Trời Thần nào, ở đâu, thập loại chúng sanh là ai, hương linh, siêu thoát,
vãng sanh, là gì? Nhưng tôi rất sợ mình làm sai trái chuyện gì, sẽ bị trời phật
thánh thần quở phạt! Trí óc non nớt của tôi được êm ái qua nghe tụng tán kinh
Phật biết sợ luật trời đất nhân quả, an vui v ới hiện tại nhưng cũng phải nhớ
đến ông bà đã quá vãng.
Nghe thơ “Lục Vân Tiên” để học đạo làm người:
Hỡi ai lẳng lặng mà nghe
Dữ răn việc trước, lành dè thân sau
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Người xưa trọng “nhân nghĩa”, lấy chữ “kiến
nghĩa” để làm thuật xử thế:
Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả,
Lâm nguy bất cứu mạc anh-hùng.
(Thấy việc nghĩa trước mắt mà không làm không
phải là tráng sĩ;
thấy chuyện nguy nan không cứu giải không
đáng mặt anh hùng)
Dù không hiểu nhiều, nhưng trí óc non nớt của
tôi cũng đã thâm nhập lời người lớn dạy dỗ con trẻ về cách làm người phải
biết: nhân, nghĩa, lễ, trí tín;
phải có tâm “Từ Bi “ theo Đức
Phật, nhưng cũng phải có cái “Trí Dũng”
của bậc anh hùng.
Thời cuộc thay đổi, Tây ngoài chợ quận xua
“lính săng đá (soldat), lê dương mặt gạch (légionaire afrique) “vào lập bót,
đóng đồn. Du kích trong bưng ra lệnh cho dân tiêu thổ kháng chiến, vườn không
nhà trống.
Tây từ ngoài bót vô ruồng
Du kích gỏ mõ, cắc bùm rồi dong
Hai phe thằng chỏng trôi sông
Nước lớn vô rạch, nước ròng trôi ra
Trong một trận ruồng bố lớn của Tây, cha mẹ
tôi bỏ của bỏ nhà, đẩy con lên ghe chạy giặc, thoát ra ngoài ngoài Quận. “Ra đi không ngó lại” cha tôi nói
với mẹ, “Thôi tiếc của làm gì, lên Saigon
cho con nó đi học!”
Gần đây tôi có về thăm lại quê nhà; ghé chợ
Cai Lậy, viếng chùa Khánh Quới, qua xã Tam Bình; đứng bên cầu chợ Kênh 12, nhìn
dòng sông Ba Rài, ngã chạy lên tỉnh Đồng Tháp, ngã rẻ sang kênh Bà Bèo vô Ấp
Bắc.
Đồng Láng Biển tôi không nhận ra được là ở
đâu, nhà cửa san sát nhau bờ đường, lấn sát bờ sông, kênh rạch. Ít thấy xuồng
ghe trên mặt nước; dưới lòng kênh lục bình bị vét sạch; con đường xáng múc đấp
bờ cao, xe gắn máy qua lại; hàng quán nhạc mới xập xình, thôn nữ tóc vàng xanh
đỏ, trai làng nhậu nhẹt om sòm.
Bà con tôi người già đã mất, người trẻ ít
biết chuyện xưa, thâm tình giả lã họ hàng. Quê tôi có thời được gọi là “Cai Lậy quốc”; chỉ còn là mớ
ký ức của người già, để viết lại hồi ký chuyện xưa như trái đất.
Trần Láng Biển
304Đen –
Llttm - VT
No comments:
Post a Comment