Quảng Trị, Đất Đợi Về.
(Trích đoạn Dương Nghiễm
Mậu)
Mỗi
lần trước khi
trở lại miền Trung, điều tôi thường hỏi: ngoài đó bây giờ mưa hay nắng. Lần này
cũng thế, người em tôi vừa từ Huế trở về sau hai mươi ngày công tác nói: trời
đang nắng và thành phố đầy hoa phượng, hoa sen. Bây giờ ngoài đó mùa hè và tôi
nhớ tới không khí oi bức trong những chuyến đi cũ vào những thời gian đầu mùa
hè: hoa phượng đỏ trên những ngọn cây, hoa sen nở đầy trong hồ Tĩnh Tâm, chung
quanh trường thành, những trái nhãn nhỏ sai trên ngọn cây trong Thành nội.
Nhưng khi tôi đặt chân tới Đà Nẵng, buổi chiều mây thấp và mưa nhỏ hạt. Người
bạn nói với tôi trời mới đổ mưa từ buổi sáng. Tôi nhìn thấy mây thấp trên phía
đèo Hải Vân. Đà Nẵng mưa thì chắc Huế mưa. Tôi hỏi về con đường qua đèo, người
bạn nói: đi được như thường, hôm qua hơi bị kẹt vì cầu Nam Ô bị gẫy. Tôi hỏi
cây cầu nào. Anh bạn nhắc lại: cầu Nam Ô. Tôi nói không phải, tôi biết ở đó có
hai cây cầu, tôi muốn biết cầu nào vì trong chuyến đi trước, cây cầu mới xây
cất, thứ cầu cho những xa lộ chưa dùng được, hôm trước đã có tin cho biết cầu Nam
Ô bị sập, nhưng là cây cầu cũ, cầu xe lửa, người bạn nói, bây giờ thì cả hai
nhưng đang được sửa chữa. Trời mây thấp, mưa nhỏ hạt, những di chuyển ướt át
khiến cho thị trấn có một khung cảnh đìu hiu.
Tôi
gởi hành lý lại nhà người bạn rồi chạy quanh, vẫn khung cảnh quen thuộc, thêm
một vài ngôi cao ốc đang được xây cất nhưng chừng như công việc đã ngừng lại,
những trường học trở thành trại tạm cư. Tại trường nữ, tôi thấy những nữ học
sinh ngồi gác cổng ra vào trong khi đó có một gia đình thì chất hành lý lên hai
chiếc xích lô, tôi hỏi và được biết: họ dời ra trại Hòa Khánh. Trại tạm cư
Nguyễn Thượng Hiền cũng đã đóng cửa với tấm vải lớn kẻ những hàng chữ cho thấy
những người tị nạn đã ra sống ở trại tạm cư Hòa Khánh. Đi bộ trên đường phố tôi
thấy số xe ôm gia tăng với những chiếc xe ghé lại lề đường. Buổi chiều báo từ
Sàigòn ra trễ và những nhà sách đông người ghé lại đợi chờ những tờ báo phát
hành từ chiều hôm trước tại Sàigòn... Tôi ghé lại nhà những người quen, nơi nào
cũng có những người thân từ Quảng Trị, từ Huế vào tạm trú, một vài người đã trở
lại Huế, hoặc đi Sàigòn, tôi được nghe nói về những người tị nạn đã vào Chu
Lai, đã đi Long Khánh. Một gia đình trong khi chạy khỏi Quảng Trị đã bị thất
tán, một nửa vào được Đà Nẵng, còn một nửa không biết đâu, những người thân
đang đi tìm kiếm nhau. Đài phát thanh Đà Nẵng với mục nhắn tin đài của những
người ở Quảng trị tìm tin cha, tìm mẹ, chồng con thất lạc. Có những đứa trẻ tám
chín tuổi bị lạc gia đình trên đường chạy giặc. Theo dõi mục nhắn tin tôi thấy
nỗi tan hoang đối với hơn ba trăm ngàn dân chúng vùng giới tuyến.
Trại
tạm cư lớn nhứt ở Đà Nẵng dành cho Quảng Trị nằm ở Hòa Khánh, một quận ở ngoài
thị xã, nằm phía nam đèo Hải Vân, ngay ven quốc lộ Một. Tôi ngạc nhiên khi vừa
từ thị xã tới đây lúc đứng trước một ngã ba đường có tấm bảng lớn sơn xanh, kẽ
chữ trắng hàng chữ: QUẬN GIO LINH. Quận Gio Linh, tôi nói với người bạn: quận
Gio Linh ở Đà Nẵng! Tôi nhớ tới nơi tôi đã từng ghé lại trong những năm trước
trên đường công tác. Ngày ấy tôi theo quốc lộ Một vượt Đông Hà ra tới đồn A2
nằm ngoài cùng giáp với vùng phi quân sự sau khi quân đội ta đã bỏ chân cầu
Hiền Lương trở vào trấn đóng phía trong gần với quận Gio Linh. Trên con đường
đầy những bom đạn tôi chỉ thấy những cánh đồng hoang vu không bóng người, dân
chúng đã phải rời làng mạc trở vào sống trong khu định cư Hà Thành, còn lại
chăng một số thôn ấp nhỏ bé nằm ở giữa quốc lộ với bờ biển, còn lại phía Tây
quốc lộ thì coi như bình địa với vùng oanh kích tự do. Nay Gio Linh chỉ còn là
tên gọi của một vùng đất. Hai tiếng Gio Linh đã đi theo dân chúng vào Đà Nẵng.
Bỏ quốc lộ đi sâu vào gần bờ biển, nơi đây có hàng trăm lều vải mới được dựng
lên cho dân chúng tạm trú. Người trưởng trại ngày nay là ông quận trưởng của
vùng đất cũ. Vị thiếu tá này người nhỏ bé trong bộ đồ đen nói cho tôi biết qua
tình hình dân chúng, ông không thể đoán chắc về số dân chúng tại Gio Linh đã ra
đi, vì hiện dân chúng không những chỉ sống tại Đà Nẵng, họ còn vào Chu Lai và
nhiều nơi khác nữa, con số phỏng chừng khoảng 28 ngàn người ra đi so với dân
hơn ba chục ngàn người. Ông kể lại cho tôi nghe những ngày kinh hoàng ở Quảng
Trị khi đoàn người rời khỏi nơi đây để vào Huế: cả đoàn xe bị mìn và pháo kích,
nhiều người bị thương phải nằm lại với tiếng kêu la thảm thiết...
- Ông
thấy dân chúng có muốn đi vào lập nghiệp ở trong Nam không?
-Phần
lớn dân chúng không muốn đi, họ mong trở lại Gio Linh.
Khi
tôi từ trong lều đi ra thì có một người đàn ông giữ tôi lại và hỏi tôi có phải
nhà báo không? Tôi nói không phải. Ông ta nói điều muốn nhờ. Tôi nói cho tôi
biết. Sau đó ông ta giới thiệu là một người thuộc làng Gia Hải, một làng phần
lớn sống bằng nghề chài lưới tại Cửa Việt, tôi ngạc nhiên khi biết dân chúng
tại làng này đã cùng nhau xuống thuyền đi về phía Nam bằng những chiếc thuyền
đánh cá nhỏ bé của họ. Điều mà người này muốn nhờ tôi là: tranh đấu cho họ được
ở lại Đà Nẵng sinh sống, họ chỉ cần giúp đỡ lương thực một tháng đqù rồi sẽ tự
túc bằng nghề đánh cá của mình. Sau đó ông ta cho tôi thấy, dân chúng tại Gia
Hải đưa được vào Đà Nẵng 150 chiếc thuyền, chuyến ra đi của họ hết sức gian
khổ, trước hết khi ra khỏi cửa Việt họ đã bị cộng quân ngăn cản, súng đã nổ vào
đoàn thuyền, một số dân chúng đã không ra đi được vì những làn đạn này, nhiều
người đã bị thương và chết trong chuyến ra đi, trước hết họ tới được cửa Thuận
An. Sau đó tới Thuận An vào trong bãi biển Đa Phước. Khi tôi nói tới chuyện đi
vào miền Nam ông ta nói chính phủ có thể mang được người đi nhưng còn thuyền bè
của chúng tôi thì sao, chúng tôi sống bằng nghề biển như vậy làm sao để thích
ứng với nghề nông trong khu vực khai hoang? Chung quanh tôi mỗi lúc một đông
người, mỗi người góp một câu chuyện, ai cũng trông được sống ở Đà Nẵng và chờ
ngày trở lại quê hương của họ, tôi cũng đã được nghe câu chuyện thương tâm của
một người mẹ kể lại cái chết của con mình trên chuyến đi Nam, đứa con của bà đã
chết trên chiếc thuyền của gia đình trong khi vượt biển vào cửa Thuận. Tôi
mường tượng thấy cảnh tượng bi hùng của chuyến ra đi, cảnh tượng giống như
những người dân miền Bắc trong vụ Trà Lý, những người đã chọn để được sống tự
do hoặc là chết... Gần hai mươi năm sau, cảnh tượng đó lại tái diễn một lần
nữa.
Những
gia đình với hành lý nghèo nàn người dân ở trong trại tạm cư chia nhau những
diện tích nhỏ hẹp để sống, những trẻ con vẫn nô rỡn trên bãi cát, những bà mẹ
vẫn nhẩn nại nhóm những bếp lửa nhỏ lo bữa ăn đạm bạc hàng ngày. Tôi thấy chiếc
áo màu của một sinh viên ra đây lo cứu trợ như lạc lõng với khung cảnh.
Người
thanh niên ấy có nước da ngăm đen, vẻ ngơ ngác trên mắt nhìn, gò má cao, cằm
vuông anh hơi chút mỉm cười ngậm ngùi khi tôi hỏi anh về chuyến hành trình đã
trải qua. Anh lặng đi rất lâu, giọng anh trầm xuống, có lúc tôi chỉ thấy môi
anh mấp máy và như tiếng nói biến mất: trước heat chúng tôi về Quảng Trị, thực
chúng tôi không nghỉ có lúc sẽ ở đây, nếu biết vậy chúng tôi đã đi thẳng tới
đây, chúng tôi không ai nghỉ thế cả, nhưng rồi chúng tôi phải đi khỏi Quảng
Trị, ngày đó là ngày mấy nhỉ, không rõ là 28 hay 29 gì đó, mà chừng như…, phải
rồi, pháo kích, rồi mìn anh ạ, rồi cả một cuộc giao tranh nữa, những chiếc xe
nổ tung, những thân người văng lean, tan tác những tiếng kêu khóc thảm thiết,
mạnh ai nấy chạy, không còn ai nghĩ tới chuyện cứu ai nữa… Chúng tôi chạy, chỉ
biết chạy thế thôi… với hai bàn chân chúng tôi tiếp tục đi, trước hết là Huế,
sau tiếp tục đi nữa, không, anh không thể hiểu được nếu anh không cùng chúng
tôi trong chuyến ra đi ấy, chúng tôi có cảm tưởng như ngay sau chân chúng tôi
cộng sản bên gót. Chúng tôi như tranh nhau lấn bước về phía trước, người ta có
phương tiện để đi, chúng tôi thì không, quốc lộ như thế mà bốn hàng xe chạy thì
anh thử hỏi làm sao chúng tôi len chân, và trên dọc đường ấy người ta như đứng
lại với nhau, không còn trật tự nữa, thỉnh thoảng súng lại nổ và người nháo
nhác… Tôi đã thấy ngay trước mắt tôi chiếc xe lật xuống đèo và những người
chết, tôi đã thấy những bà mẹ kêu gào tìm đứa con thất lạc… Tôi không hiểu tại
sao sự việc lại xãy ra như thế, bây giờ nhìn lại tôi càng thấy vô lý, bọn nó
chưa tới được vòng đai mà sao mình đã bỏ lại hết để chạy… Tôi lạc mất một người
em gái, cho đến hôm nay tôi vẫn không hiểu nó còn sống hay đã chết phơi xác dọc
theo quốc lộ…
Người
thanh niên lặng đi, đôi mắt nhìn xuống trũng bóng tối. Tôi không còn biết có
lời nào để nói với anh. Tôi nhớ lời anh Cường kể lại chuyến đi của chính anh,
thực anh chưa muốn đi nhưng sau nhìn lại thấy mọi người đi hết thì anh sợ,
người anh nghĩ chưa đi là anh Du thì anh đã thấy lên trực thăng đi rồi, cuối
cùng anh phải đi chiếc xe cũ đưa anh lên đèo nhích từng chút, có lúc xe không
đứng lại được mà tụt xuống, đi từ sáng cho mãi tới 9 giờ tối mới vào tới Đà
Nẳng, trên đường anh đã thấy những người lính nổ súng bắt xe cho họ lên, anh đã
thấy một bà cụ già ngồi trên một tấm gỗ có gắn bánh xe tay bám lấy chiếc dây thong
buộc vào chiếc xe đạp của người con đạp phía trước… Mường tượng tới cảnh ra đi,
quãng đường Quảng Trị-Huế-Đà Nẳng trở thành một cuộc trường chinh cho người dân
Trị Thiên, tôi nghĩ nếu con đường đèo bị cắt, hay một cuộc phục kích xảy ra thì
họ sẽ ra sao?
Tôi ra
bến xe, trời mưa nhỏ, tôi chờ cho những chuyến xe từ Huế vào tới nơi thì leo xe
trở ra. Tôi thường theo cách đó để có thể yên tâm lên đường mỗi khi ra đây công
tác. Chuyến xe quen thuộc màu đen với mười chỗ ngồi, số người trở ra Huế chờ
đợi từng chuyến xe đến và trong chốc lát lên đường trở ra. Đường ra khỏi thị xã
xe cộ đủ loại nối đuôi nhau, có hàng trăm xe vận tải đưa đạn vượt qua đèo.
Trước khi tới cầu Nam Ô xe bị đọng lại với sự chờ đợi oi bức, xe nhích từng
khoảng ngắn. Khi ngang qua tôi thấy dòng sông rộng. Cây cầu xi măng bị hư một
nhịp đang được sửa chữa và hiện có một cầu tạm bắc lên cho xe cộ lưu thông. Cầu
Nam Ô là cây cầu xe lộ độc nhất được hãng thầu Mỹ làm cho suốt dọc quốc lộ từ
Đà Nẵng tới Huế, cầu Lăng Cô là cầu cù được sửa lại, còn hầu hết những cây cầu
khác được làm bằng gỗ ở đây đã bị phá sập, những chiến sĩ công binh đang lo đắp
một con đường vòng và sửa lại cây cầu. Chiếc xe tôi đi chạy hơi ra ngoài bị
chận lại, như một hình phạt không được qua, người tài xế bứt đầu bứt tai nhìn
những chiếc xe chạy sau vượt lên phía trước, tôi thấy nhiều xe chở hàng không
có mui chở đầy người, đó là những gia đình ở Huế trở lại nhà, họ mang những
hành lý. Có những chiếc xe có mui thì người ngồi cả trên mui cao, trên quãng
đường này tôi cũng thấy nhiều xe chạy đường xuyên Việt, từ Quảng Trị tới
Sàigòn, nhưng vì biến cố trong những ngày qua đã khiến cho những chuyến xe này
không thể trở lại Sàigòn được. Những chuyến xe sẽ thương nhớ đường dài… Mưa vẫn
đổ mau hạt trong khi xe qua đèo, con đường rộng, nhựa phẳng trở thành nguy
hiểm, tôi nghĩ tới những ngày tháng trước khi đoàn người tỵ nạn phải ngang qua
đây. Một trăm cây số của đường dài những lo âu chất ngất và nỗi kinh hoàng nhìn
về ngày mai… Vùng biển Lăng Cô làm tôi nhớ lại mộng ước được về sống trong một
xóm dân chài của Ninh Hòa, hai tiếng Hòn Khói vẫn còn ghi nhớ với những cồn cát
trắng như tuyết và những ngọn dương cao cùng với biển xanh bao la phía trước…
Quê hương ta những vùng đất hứa có that vẫn còn đó nhưng chừng như lúc nào cũng
ở ngoài tầm tay với…
Cầu
Phú Lưu bị sập nhưng vẫn di chuyển một chiều, khoảng đường từ phía chân đèo trở
lại Huế tôi thấy nhiều binh sĩ thuộc Sư đoàn 3, họ có mặt nơi những chiếc cầu
còn lại. Trên một thành cầu sắt của đường xe lửa tôi nhìn thấy hàng chữ: bảo vệ
cây cầu tới giọt máu cuối cùng. Tôi buồn rầu nghĩ tới những cây cầu đã gãy. Tôi
nghĩ tới những cây cầu gỗ trên quốc lộ 9 nối Đông Hà tới biên giới và trên quốc
lộ 1 Gio Linh tới Đà Nẵng.
Năm
1968, khi tôi theo quốc lộ 9 lên Cam Lộ, nơi có trên 6 ngàn dân chúng quận
Hướng Hóa từ trong núi về tị nạn, trong số này phần lớn là sắc tộc Bru. Bấy giờ
trận chiến ác liệt ở Khê Sanh, trong khi xe ủi đất Mỹ làm việc không ngừng, họ
mở rộng đường trải đá, trải nhựa và làm cầu. Tôi tự hỏi như vậy có phải con
đường sẽ được dùng để sang Lào không? Năm 1970 trở lại, cả vùng đã hết lính Mỹ,
chúng tôi dùng xe díp chạy từ Quảng Trị lên Cam Lộ uống cà phê và nói chuyện
hòa bình, ngày lên xin đất mở đồn điền trên Khe Sanh… Tôi nghỉ tới những cây
cầu và hỏi: những cây cầu bằng gỗ này chịu đựng được bao nhiêu năm? Tại sao
không phải là cầu xi măng? Không ai trả lời. Và tôi cũng đã hỏi: sao Mỹ làm con
đường này tốt vậy mà không dùng? Và câu trả lời mãi tới khi có cuộc hành quân
sang hạ Lào tôi mới thấy, mỗi ngày hàng trăm xe đạn dược theo đó mà tới Khê
Sanh. Nói tiếp về những cây cầu tôi cũng thấy từ Gio Linh vào Huế chỉ mới có
một cây cầu mới đúc, còn hầu hết là cầu gỗ. Và bây giờ tôi lập lại câu hỏi:
những cây cầu chưa bị phá sẽ còn chịu đựng được bao nhiêu lâu?
*
Phú
Lộc, La Sơn, Phú Bài, Phú Lương, Dạ Lê, An Cựu… và cầu Trường Tiền. Huế vẫn còn
đó, một sinh hoạt lặng lẽ, nhiều căn nhà cửa đóng nhưng có toán công nhân sửa
đường vẫn làm việc, những người thợ nề vẫn tiếp tục chát vôi nơi bệnh viện
trung ương đang xây cất… Hoa phượng đỏ như máu trên những con đường hai bên bờ
sông, trong Thành nội, ghe thuyền đầy trong long sông nhà bè và vùng Bao Vinh
không khí như thưở thanh bình, tôi nghe thấy một không khí chìm chìm nhưng đầy
đe dọa. Tôi tìm gặp lại những người bạn cũ, gần hết đã ra đi. Anh Tấn bây giờ
nuôi râu dài như một đạo sĩ, anh Du như già hơn mấy tuổi, anh nói lại một ngày
từ sở làm ra đường tìm xe về nhà, phố vắng tanh, không một chuyến xe khiến anh
ngao ngán thấy mình như con chó hoang, và mắt anh như rưng rưng khi kể lại
chuyến bay đưa anh khỏi Thành nội trong không khí nháo nhác tan vỡ. Bây giờ thì
anh đã trở về một mình sống như mình muốn sống. Thục nói: ở lại với ý nghĩ
ngông cuồng làm kẻ tuẫn đạo… Liệu có mất Huế không?
Cộng
sản có đánh Huế không? Tại sao Huế không bị pháo kích? Những câu hỏi đặt ra mà
không ai dám trả lời khẳng định, ai cũng có ý kiến nhưng sao đó là cái mĩm cười
ngụ ý… Thành phố đầy những lính, đủ màu áo, hình như không thiếu một binh chủng
nào, ít hoặc nhiều họ đều có mặt. Tôi gặp lại những người bạn trong quân đội
những ngày cũ. Những hàn huyên không hết về kẻ sống người chết, những người ở
An Hậu, những ngày ở Phú Thứ, những ngày trong Dãy Phố Buồn Hiu, những ngày ở
Khê Sanh, những ngày rong chơi yên bình trong những làng xóm ở Triệu Phong nói
chuyện về những nàng cung phi sinh trưởng ở Sải, và vẻ đẹp tây phương của những
cô gái ở Mỹ Chánh, dòng sông mà người bạn tôi nói nửa đục nửa xanh, nơi những
thuyền bè tay phương từ thế kỷ trước đã vào đó…
Buổi
chiều mưa thật lớn, người bạn nói với tôi cơn bão đang tiến tới. Một người bạn
nói với tôi về Huế: đất gì lạ, một năm ở đây thì có ba tháng để tranh đấu, ba
tháng để chịu tai ương, ba tháng để cứu trợ, còn ba tháng để làm thơ. Điều
người bạn nói thực đúng với thời gian 10 năm trở lại đây, Huế đầy những tai
ương và đau khổ, cơn ác mộng Mậu Thân với hàng ngàn người bị chôn sống vẫn còn
ám ảnh tôi những người sống sót, đó là một trong những điều giải thích vì sao
họ đã lũ lượt kéo nhau ra khỏi Huế dù thực sự chiến tranh chưa đến.
Tôi
theo xe người bạn ra khỏi Huế, hiện đang có những cuộc chuyển quân vào phía Tây
và phía Bắc, những chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiến đã đột kích ba lần vào vùng đất
Quảng Trị, nhưng sông Mỹ Chánh vẫn là chiến tuyến. Quốc lộ 1 chạy về phía Bắc
vắng hoe, chỉ có những xe nhà binh di chuyển với vận tốc nhanh hơn thường ngày,
những cánh đồng ở Hương Điền vẫn có bóng người nông phu, thiên nhiên vẫn như
một ngày thanh bình cũ. Trong phòng tuyến, tôi hỏi một anh bạn: bao giờ qua bên
kia? Người bạn cười, định qua rồi nhưng mưa nên ngừng. Sao vậy? Hết mùi thối
rồi… Tôi không hiểu. Người bạn nói: Mấy hôm trời nắng, gió Nam thổi hôi quá
chịu không nổi tính hành quân để chôn xác chất của mấy trận, nhưng mưa rồi nên
đỡ.
Người
bạn nói: Tôi ở lại đây và tôi chờ ngày vào Quảng Trị.
Tôi
nhìn người bạn.
No comments:
Post a Comment