LỚP NGƯỜI BỊ BỎ SÓT
Hôm
ấy, một hôm về cuối mùa đông, cách đây độ hơn mười năm, trời xế chiều, tôi mới
đến nhà cụ Thượng Lão Việt. Cái nhà mới lạ làm sao! Nó là một túp lều tranh lụp
xụp, đầy cảnh thê thảm, nhưng lại có vẻ vui vẻ. ở gian bên này khách khứa tấp
nập. Người ta cười cười nói nói sốt sắng đợi hơi thở cuối cùng của ông cụ già.
Cụ Thượng nằm to vo trên chiếc giường tre trong gian bên kia. Mặt cụ ngoảnh vào
bức vách. Lưng cụ uốn gù con tôm. Bức chăn dạ đỏ phủ trên mình đã hóa màu gạch
non vừa vặn đậy kín từ vai đến gối. Cái đầu trắng xóa và đôi bít tất thủng gót
đeo ở cổ chân đều bị để lộ ra ngoài. Cánh dại che ở trước cửa chỉ còn lơ thơ
vài nan. Gió Bắc tự do đưa mãi hơi lạnh từ ngoài sân vào vách. Mấy cục củ tre
nhóm trên đống trấu cạnh giường đã hết ngọn lửa, khói đang nghi ngút tỏa khắp
nhà. Cụ Thượng từ từ mở hai bàn tay gầy guộc khoác nhau ở đằng sau gáy, nặng
nhọc trở mình ra ngoài, chào tôi bằng hai con mắt cảm động khi tôi rón rén ghé
vào giường cụ, và sẽ lên tiếng hỏi cụ.
Biết
bao nhiêu sự hối hận rung động lòng tôi! Nó trách tôi đến thăm cụ muộn quá. Với
cụ, tôi không phải là kẻ họ hàng thân thích, hay người cùng tỉnh cùng huyện. Sở
dĩ biết nhau chỉ vì một chuyến tàu thủy chạy từ Hà Nội xuống Nam Định, chuyến
tàu chở dân lều chõng lần cuối cùng. Bấy giờ tàu cạn ở trên cửa Luộc, phải dừng
lại đó suốt hai ngày một đêm để chờ con nước. Trong lúc suốt ngày đêm lênh đênh
ngồi trên mặt nước để nghe những tiếng "dì xế dì" và "xám xế
xám" của bọn mạch nô đo nước, người ta dễ thân với nhau, nếu đã cùng nhau
ăn cùng mâm và nằm cùng chiếu. Nhờ vậy tôi mới trở nên người bạn của cụ, dù tôi
kém cụ hơn ba chục tuổi và không phải cùng làm một nghề với cụ. Cụ yêu tôi về
tính hoạt động. Còn tôi thì tôi trọng cụ ở chỗ từng trải, chất phác, có can
đảm, không câu nệ, luôn luôn nhìn đời bằng con mắt lạc quan, nhất là những lúc
rung đùi mà cất chén rượu, cụ đã tỏ ra người có chí khí. Bấy giờ, cụ đương buôn
than, thường lên Hà Nội mua hàng tải về Nam Định. Nhưng cụ cũng có biết chữ,
chữ quốc ngữ đủ để đọc báo, chữ Hán thì có thể hiểu những cuốn Tam quốc chí hay
là Chinh đông chinh tây. Sau mấy ngày tình cờ hội ngộ, chúng tôi biệt nhau khi
tàu cập bến Nam Định. Từ đó, tuy không gặp nhau, nhưng mà hai bên vẫn có thư từ
đi lại. Mỗi lần cụ đổi nghề này làm nghề khác, đều có viết giấy cho tôi. ân hận
hơn hết là cái giấy mời tôi đến làng Lão Việt dự tiệc bảy mươi, cái tiệc người
ta ăn vạ cụ về tội dám sống đến bảy chục tuổi để là "cụ thượng" làng
ấy.
Lúc
ấy, tôi đã định đi, rồi lại ngần ngại không đi. Thế rồi, ba năm sau, một bữa
tôi nhận được một bức thư của cụ và tôi giật mình đánh thót, khi coi đến mấy
dòng này:
"Tôi
nay sắp sửa từ giã cái làng Lão Việt, từ giã hết thảy những yêu ghét trong
khoảng bảy mươi năm trời. Gan ruột tôi đang bồn chồn không muốn ở lại một ngày
nào nữa. Sở dĩ chưa nhắm mắt được là vì còn mớ tâm sự muốn ngỏ với ông. Nếu lần
này mà không được gặp ông, thì cái tâm sự ấy, tôi đành đem xuống suối vàng để nói
với lũ quỉ sứ..." Chao ôi! Một chữ bao nhiêu đau đớn! Có lẽ cụ đã viết
bằng nước mắt. Còn một lẽ nào để tôi chậm sự lên đường trong vài giờ? Nhưng tôi
hết sức ngạc nhiên khi thoạt bước đến trước cổng nhà cụ. Trong khu vườn xoan kề
bên cổng, người ta đã buộc một con trâu kềnh. Theo cái giá rẻ hồi ấy, nó cũng
đáng đến bốn chục bạc. Cạnh đó, một bó nứa khô, mấy chiếc đòn tre, lổng chổng
dựa vào gốc xoan và mấy bó rơm tanh bành quẳng ở giữa vườn. Thoáng coi những
vật liệu ấy, đủ thấy một cuộc vật trâu đang được dự bị tại đó.
Ngó
vào trong cổng, một tòa rạp lớn nghênh ngang dựng ở ngoài sân, mái cót còn chưa
lợp kín. Dưới rạp giường, phản, bàn ghế đã kê sẵn sàng. Nong bát, nong đĩa,
chum đựng nước, cối giã giò, rồi nồi ba mươi... không biết mỗi thứ là bao nhiêu
cái, la liệt bày khắp ngoài rạp. "Tội nghiệp! Cụ Thượng đã chết mất rồi!
Con cháu đã đương sắp đồ làm ma đây rồi! Mình không được nói với cụ một câu
nào, sao mà phụ phàng cụ thế?..." Với sự bùi ngùi ấy, tôi bỡ ngỡ bước vào
trong sân. Mấy chục con mắt đổ dồn vào tôi. Không ai biết tôi là người nào hết.
Bởi vì tôi đến nhà cụ, lần này là lần đầu. Sau khi tôi tự giới thiệu, một người
đàn ông, độ bốn mươi tuổi, tươi cười bảo tôi:
- Rước
ông vào chơi trong nhà! Ba bốn hôm nay hôm nào thầy tôi cũng nhắc đến ông.
Thì ra
người đó chính là con trai cụ Thượng. Lúc đó tôi mới biết cụ Thượng còn sống.
Đưa
tôi vào đến cạnh giường cụ Thượng, người ấy chỉ kịp rót cho một chén trà nguội,
rồi ông ta sấp ngửa chạy đi, coi bộ đương bận rộn lắm. Cụ Thượng tuy đương ốm
nặng, nhưng nó chỉ là bệnh già, cũng như cái cây hết nhựa, chứ không có chứng
gì khác. Vì vậy tinh thần vẫn còn tỉnh táo. Tuy đã xa nhau đến gần mười năm, mà
khi thoạt nghe tiếng tôi, cụ liền nhận ngay ra tôi và cố quay mặt ra chỗ tôi
ngồi! Cái mặt mới đáng sợ chứ! Nó sạm như ngả bùn, đôi mắt trũng hoáy, đôi má
hóp lại, hai cái gò má dô lên, người ta có thể ngờ là một chiếc đầu lâu, nếu
không có đôi con ngươi lóng lánh. "Sao mình không đi thăm cụ tự mấy tháng
trước để đáp tấm lòng ân cần của cụ trong mấy năm xa nhau? Bây giờ đã đến thế
này, cụ còn sức đâu mà kể với mình những điều cụ định kể? Thật là mình đã phạm
một tội lớn! Chính mình đã làm cho cụ thấy áy náy trước khi từ giã cõi đời!...
Tôi đang phàn nàn với tôi như vậy thì cái bàn tay cẳng gà của cụ chờ choạng nắm
lấy tay tôi. Rồi cụ cất giọng rên rên như sắp đứt hơi:
- Đáng
lẽ tôi sẽ im lặng mà chết, không thể nói thêm câu nào, dù tôi vẫn muốn nói. Bởi
vì luôn hai bữa nay người tôi đã hết khí lực, không đủ sức để đưa câu nói ở
trong miệng ra. Không hiểu vì sao mới nghe tiếng ông, tự nhiên tôi thấy trong
mình hơi mạnh hơn trước. Có lẽ bây giờ tôi đã có thể nói nhiều với ông. Ngừng
lại giây lát, cụ tiếp:
- Tôi
sẽ là người chết oan! Ông nên nhớ cho như thế!
Nghe
đến câu ấy, tôi phải hết sức sửng sốt, nhưng vẫn cố giữ vẻ bình tĩnh. Cụ vẫn
ngập ngừng cất từng tiếng một:
- Đời
tôi thế nào, ông đã biết rõ. Nhiều lúc tôi vẫn tự phụ: tuy không thông minh,
nhưng không đến nỗi ngu đần. Nhất là tôi không lười biếng...
Xen
vào đó, một tiếng thở dài, rồi cụ lại nói đều đều:
- Thật
vậy, từ thuở mười bảy tuổi đầu đến giờ, tôi không chơi không ngày nào, trừ ra
những ngày đau ốm. Thôi thì cày sâu cuốc bẫm, buôn ngược bán xuôi, không quản
ngại một việc gì cả. Có lúc đã lên mỏ Hích lăn lộn với đám phu mỏ... Những việc
tôi làm, bất kỳ việc nào, tuy không phát đạt, nhưng không thất bại bao giờ,
chẳng lãi nhiều thì lãi ít. Vậy mà suốt đời nghèo xác, nghèo xơ, ăn không đủ,
mặc không đủ, cả nhà có một thằng con đành để nó dốt nát. Ông bảo là vì cớ gì!
Tiếng
cười nói ở gian bên kia làm cụ im đi một lúc như để chờ câu trả lời của tôi.
Lâu lâu cụ mới cắt nghĩa:
- Ấy
là bởi gánh việc làng. Cái làng Lão Việt nhà tôi có thể đại diện cho cả hương
thôn già cỗi của nước Việt Nam. Vì nó là chỗ để chứa hủ tục. Bất kỳ hủ tục nào,
làng tôi đều có đủ cả. Vì thế mà tôi suốt đời còm cọm, chỉ để đóng góp là vừa.
Bây giờ tôi sắp nằm xuống, lại sắp để lại cho thằng con tôi một cái gánh nặng.
Những sự linh đình ông thấy ở ngoài sân kia, sẽ là món nợ mà một đời nó chưa
chắc trả hết... Đuôi con mắt cụ bỗng có một giọt nước rỏ xuống dưới chiếu, cụ
cố nói cho ra giọng cứng:
- Hủ
tục không phải là thứ thiên kinh, địa nghĩa, nó vẫn có thể thay đổi, nếu phái
trí thức để ý đến sự khai hóa cho dân quê. "Nhưng vì chúng tôi là một lớp
người bị bỏ sót trong đá tre xanh, con mắt của phái trí thức ít khi ngó tới.
Bởi vậy, những cái tục lệ quái gở, mọi rợ mới được tự do kế tiếp nhau, chồng
chất lên vai chúng tôi. "Nhiều lúc tôi muốn hắt cái gánh nặng ấy đi, nhưng
sức một mình không thể làm nổi, đành phải è cổ mà chịu.
"Một
người chăm chỉ, cần kiệm, lao lực như tôi, chỉ vì một gánh tệ tục đè ép, đến
nỗi suốt đời không ngóc đầu lên được, bây giờ sắp chết, gánh tục lệ ấy vẫn còn
đè ép chưa tha, ông bảo có oan uổng không? Vậy mà nó vẫn được coi như vị thần
thiêng, không ai đả động đến nó. Lạ thay! Tôi ước ao rằng: sau khi tôi đã nhắm
mắt, ông sẽ đem những tội ác của nó mà phơi ra bóng mặt trời"...
Lúc
này tiếng nói của cụ đã thấy nhỏ dần. Vì sợ cụ mệt, tôi tạm cáo từ để ra chỗ
khác. Gần tối, tôi lại tới đó. Cụ vẫn ngoảnh mặt trở ra như có ý đợi tôi. Khi
thấy tôi đến, cụ cố gắng sức đưa ra những tiếng thì thào và rời rạc:
- Một
nước giống như một cái xe bò, lớp trí thức là người làm bò, lớp dân quê là
người đẩy xe. Nếu kẻ đẩy còn bị những dây lệ buộc chặt hai chân, thì kẻ làm bò
tài giỏi bậc nào cũng không thể kéo được cái xe bò lên dốc... Vì vậy... tôi chỉ
mong mỏi các ông đưa mắt đến chỗ bẩn thỉu, tối tăm... trong đá tre xanh".
Hết
câu đó, cụ bỗng trợn ngược hai mắt, đờm ở trong cổ kéo lên khè khè. Cả nhà nhớn
nhác xúm lại. Cụ đã tắt thở. Cái lúc trong nhà im lặng bỏ tiền và gạo vào miệng
người chết, thì ở ngoài vườn người ta cũng hò reo để vật con trâu. Từ lúc đưa
đám tang cụ Thượng, lời cụ vẫn văng vẳng bên tai tôi. Sau mười năm lang thang
nay đây mai đó, tới đâu tôi cũng thấy chứng cớ về sự từng trải và nỗi đau đớn
của cụ. Cụ quả là người chết oan. Cho được an ủi vong hồn của cụ, tôi phải minh
oan cho cụ và cho những người như cụ bằng thiên phóng sự này.
Ngô Tất Tố
Hưởng thọ 60 tuổi
Nhà văn, Nhà báo, Dịch giả
"Gần ngày chiến thắng Điện Biên Phủ, Hội Văn Nghệ Việt Nam họp trên đồi Nhã Nam. Cuộc đấu tố của văn nghệ sĩ diễn ra gay gắt căng thẳng. Người ta đã vu cáo những chuyện tày trời, quyết liệt dồn Ngô Tất Tố vào tận chân tường.
Tác giả Lều Chõng và Việc Làng đã phạm tội phục cổ nhằm mục đích gì?
Và, Ngô Tất Tố đã qua đời vào đêm 20 tháng 4 năm 1954 bằng thắt cổ tại nhà riêng ở Yên Thế, Bắc Giang.
Cái chết của nhà văn khắc nghiệt đến mức nghĩa trang liệt sĩ xã ở địa phương không cho chôn ..."
No comments:
Post a Comment