MỘT BUỔI CHẦU
Đầu
giờ Dần quan lễ bộ tả thị lang họ Hà đã thức dậy gọi gia nhân thắp đèn đuốc
sáng trưng năm gian phòng tư thất. Sáng sớm hôm nay, ngài sẽ cùng văn võ bá
quan vào cung chầu thiên tử, trong buổi đại triều thứ nhất về mùa xuân.
Thánh
thượng ngọc thể khiếm an đã hơn hai tháng. Đã hơn hai tháng các quan không được
gặp thiên nhan. Vì thế quan thị lang sốt ruột mong chóng tới giờ bệ kiến.
Không
những quan thị lang đã nổi tiếng là một trung thần ai ai đều kính phục, mà chữ
trung đối với ngài còn có một nghĩa cao cả thiêng liêng. Ngài đinh ninh thờ vua
ở trên đầu, âm thầm thờ vua ở trong tâm. Lúc thức tơ tưởng đến vua, lúc ngủ
chiêm bao thấy vua. Thị lang muốn cả cái thân ngài hoàn toàn là kỷ vật của vua
và chỉ ao ước có dịp được hy sinh cho thánh thượng.
Hy
sinh! Xả thân vì thiên tử! Không một ngày nào, không một giờ nào, quan thị lang
không nghĩ đến điều ấy. Rồi đem điều ấy dạy vợ dạy con, coi như đó là một học
thuyết, là học thuyết độc nhất của bọn thần tử, của toàn thể quốc dân.
Thị
lang không bỏ qua một dịp nào có thể nhắc đến ơn vua. Ngài thường bảo cho lũ
con nhỏ biết rằng chúng ăn cơm vua, mặc áo vua ban, và cả gia đình đều nhờ lộc
vua mà được sống.
Những
lời xúc phạm tới vua, dù nhẹ đến đâu mặc lòng, thị lang không bao giờ tha thứ.
Và ngài thường lấy địa vị một viên quan trong bộ Lễ tư sang bộ Hình đòi làm tội
nặng cực điểm những kẻ phạm thượng.
Mới
cách đấy hơn một tháng, thị lang đã toan khép vào án tử hình bà thứ thất yêu
quý của ngài vì một tội chẳng lấy gì làm trọng cho lắm. Bà chỉ bình phẩm một
câu về hoàng thượng, mà lại bình phẩm trong phòng khuê giữa câu chuyện ái ân
đằm thắm. Nhân chồng báo tin cho bà biết rằng thánh thể bất an, bà mỉm cười
nói:
- Bà
thứ phi đẹp thế làm gì mà thánh thể chẳng bất an.
Sự
thực, năm trước hoàng thượng vừa kén được một cung tần, một thiếu nữ giặt chiếu
bên sông mà mê vì sắc, trọng vì thông minh ngài đã cất lên ngôi thứ phi và rất
đỗi thương mến như viên ngọc quý trên tay. Vả câu nói của bà thứ thất quan thị
lang chỉ là một câu đùa bỡn trong lúc nũng nịu. Nhưng đối với người trung thần
kia, thì đó là một ý tưởng bất kính, một ý tưởng phạm thượng, phản trắc. Vì
thế, ái tình quan thị lang đang bồng bột nồng nàn bỗng lạnh ngay như giá băng.
Rồi ngài ra công đường thảo bức thư giao phó bà thứ thất về với cha mẹ trong
sáu tháng; bà được kết án nhẹ như thế là cũng nhờ về có nhan sắc.
*
Quan
thị lang đã đóng xong triều phục. Chỉ còn thiếu một đôi hia, vì ngài không ưng
đi đôi hia thường. Ngài cho rằng mang đôi hia đã dùng để đi ra vườn, ra sân,
nhỡ giẫm phải một vật ô uế, thì còn đâu là lòng kính cẩn khi quỳ trước sân
rồng. Bởi vậy, ngài đã truyền gia nhân mở rương lớn lấy đôi hia mới.
Ngồi
trong ghế bành tượng, quan thị lang nóng nẩy chờ lính hầu đem hia lại. Và ngài
băn khoăn tìm xem còn điều gì khiếm khuyết nữa không. Hôm qua, ngài đã tắm gội
thanh khiết. Ngài lại đã trai giới trong luôn ba hôm. ấy là không kể mười ngày
trai giới trong tháng trước để cầu nguyện cho thượng hoàng chóng bình phục...
Sợ
chậm trễ bị quan quở, chú cai hầu cận chỉ kịp phủi qua bụi trên mũi đôi hia
nhung, rồi vội vàng lồng vào chân quan.
Bấy
giờ mới giữa giờ Dần mà dinh quan tả thị lang bộ Lễ lại gần cửa Ngọ Môn, nhưng
Hà công cũng hấp tấp ra đi. Ngài thừa biết còn sớm chán và đến Ngọ Môn sẽ phải
đợi lâu mới tới giờ Mão, giờ vào chầu. Ngài làm ra vội vàng, chẳng qua là để tỏ
lòng mẫn cán thờ vua của mình, tỏ riêng với mình để được đúng lễ chứ không cần
phải bộc bạch cho mọi người đều biết.
Hà
thị lang đứng dậy ra sân. Một hồi trống khẩu, một tiếng hô. Tức thì một cái
võng trần ghé lại bên thềm. Kể thì chức tả thị lang chánh tam phẩm được đi kiệu
cũng như chức thượng thư chánh nhị phẩm, nhưng Hà công không bao giờ dùng kiệu
để vào chầu vua. Ngài cho cái kiệu cao quá, và ngồi nghênh ngang trên kiệu,
ngài thấy không hợp với cái đạo làm tôi. Người bầy tôi phải khúm núm run sợ,
khi đương đi đến sân rồng cũng như khi quỳ trước long nhan.
Nhưng
không phải vì thế mà quan tả thị lang lúi xùi. Ngài vẫn dùng đủ các nghi phục
ngài được phép dùng: bốn cây lọng xanh, bốn cái đèn lồng và hai đôi kiếm, quất.
*
Một
hồi trống lớn. Cánh cửa Ngọ Môn mở rộng. Hai bên các quan văn võ qua hai lối
xép đi vòng hồ bán nguyệt, thong thả, trịnh trọng theo điệu âm nhạc bước tới
sàn đại điện. Rồi chia ngôi thứ, ghi ở các biển phẩm trật, các quan quỳ thành
hai hàng dài.
Bấy
giờ cửa điện đã mở, nhưng rèm còn buông, nên các quan đều chưa rõ hoàng thượng
đã ngự triều hay chưa. Tuy thế mặc lòng, nhiều quan cũng thì thầm nói chuyện
với nhau. Và có người lại dám cúi gằm mặt xuống khúc khích cười nữa.
Riêng
về phần Hà thị lang, ngài không nhúc nhích, mắt đăm đăm nhìn thẳng vào miếng
kính ở cái hốt ngà.
Một
câu hô: "Thiên tử!"
Các
rèm kéo lên một loạt.
Giữa
lúc ấy, Hà thị lang thấy có một vật động đậy trong hia bên trái. Rồi các đầu
ngón chân buồn buồn tựa có kiến bò. Thị lang rùng mình, và rời rã chân tay như
người bị cù. Nhưng một tiếng hô thứ hai làm ngài giật mình và quên hẳn cái
chân.
"Bái
chúc thánh hoàng vạn tuế!".
Ngài
theo các quan quỳ phía trên, phủ phục xuống sân rồng, đọc cùng một loạt:
"Bái
chúc thánh hoàng vạn tuế! Vạn vạn tuế!".
Tiếng
"tuế" sau cùng vừa dứt, Hà thị lang thấy nhói một cái ở ngón chân út,
như bị một mũi dùi đâm mạnh, khiến suýt nữa ngài kêu: "ái!".
Thị
lang cho là mình để chân nhầm chỗ có cái đanh nhọn, và vì mình ấn mạnh hia
xuống gạch để lạy, cái đanh ấy xuyên qua lần vải mà chọc vào ngón chân. Đoán
chỗ thủng sâu lắm, và có cảm giác máu chảy, thị lang ngó ngoáy và cố di ngón
chân út vào vải hia cho đỡ ngứa, thì cái đanh tưởng tượng lại càng đâm mạnh
hơn, sâu hơn.
Rồi
liền ngay lúc ấy chỗ đau nhức nhói, buốt chội lên như ai cầm một nắm kim mà cắm
thấu tận xương. Thị lang nghiến răng lại để khỏi xuýt xoa. Và ngài nghĩ thầm:
"Thiên tử mới bình phục chắc còn mệt. Vậy thì cố chịu đau một lát nữa thế
nào rồi...".
Nghĩ
đến đấy, thị lang bỗng phải ngừng lại để toan kêu thét lên vì vừa bị một nhát
thương thứ hai ở ngón chân cái. Bấy giờ cái cảm giác có một con vật bò trong
chiếc hia rộng đã hơi rõ rệt. Thị lang thấy cả hàng chân mềm của con vật động
đậy và chải mơn lên đầu mấy ngón chân của mình. Rồi như có một cơn gió vừa thổi
lạnh vào thân thể, vào ngũ tạng, thị lang rét run, hai hàm răng đập vào nhau
côm cốp.
Nhức
buốt dần dần tăng, dần dần lan ra tứ chi, thấm vào ruột, vào phổi, ăn thẳng lên
óc. Thị lang tưởng chừng con vật ở trong hia đã chui lọt qua lần da, theo đường
các ống xương mà chạy thực mau, vừa chạy vừa cắn.
Nhưng
tuy đau có thể chết ngất được, thị lang vẫn cố sức, vẫn thu hết tàn lực lại để
quỳ vững vàng, ngay thẳng. Mỗi khi cái lưng ngài muốn gập xuống dưới sức đè
nặng trĩu của con quái vật tàng hình thì ngài lại nghiến răng bạnh cổ và ưỡn
ngực để chống lại. Vì cái đau xé can tràng vẫn không thể làm cho tinh thần ngài
mất tỉnh táo đến nỗi quên được rằng mình đương chầu vua, và chỉ một tiếng kêu
bất kính, một cử động không hợp lễ như thò tay bóp chỗ đau chẳng hạn, cũng đủ
liệt mình vào hàng bầy tôi bất trung.
Mắt
thị lang lim dim nhìn vào kính hốt thấy đôi mi xưng húp như chứa đầy nọc độc
con vật kỳ quái.
Rồi
mình mảy thị lang đau ran lên, đau từng phân, từng li thịt một. Bất giác hai
dòng lệ tuôn rơi lã chã, thị lang phải ghì hết can đảm và nghị lực mới giữ được
khỏi thốt ra câu thỉnh cầu khiếm lễ: "Muôn tâu Bệ hạ, xin Bệ hạ miễn triều
cho kẻ hạ thần, chẳng kẻ hạ thần chết mất."
*
Trong
khi ấy thì hoàng thượng vui vẻ hỏi chuyện quan thái sư mà ngài vừa truyền gọi
đến bên ngai vàng. Ngài cười nói coi bộ thích chí, thì thầm nhiều câu tưởng
chừng bí mật lắm. Và ngài như quên hẳn bọn bầy tôi đương quỳ ngoài sân rồng.
Bỗng
ngài quay ra, chau mày nhìn, rồi lẩm bẩm như gắt:
-
Miễn triều!
Tức
thì quan thị vệ ngân nga hô lớn:
-
Thiên tử miễn triều!
Các
quan thong thả lên gối đứng dậy một loạt.
Một
mình Hà thị lang vẫn quỳ. Người bên cạnh nhắc:
-
Kìa, quan bác, Bệ hạ miễn triều!
Hà
thị lang ngửng lên chừng để được thấy thiên nhan một lần cuối cùng, rồi nằm vật
ra kêu:
-
Trời ơi! Cái hia!
Các
quan ngơ ngác, hoảng hốt cúi nhìn: Hà thị lang bằn bặt thiếp đi.
Nghe
có tiếng ồn ào, hoàng thượng hỏi thái sư:
- Cái
gì thế?
Một
quan thượng thư tiến gần lại quỳ tâu:
-
Muôn tâu Bệ hạ, Hà thị lang vừa ngất đi. Mà lúc Hà thị lang lăn ra đất, kẻ hạ
thần có nghe thấy tiếng kêu: "Cái hia!" Vậy chưa rõ thực hư, kẻ hạ
thần xin cứ tâu lên thánh thượng.
Hoàng
đế cười, phán:
- Hắn
kêu "cái hia" thì cứ tháo hia hắn ra sẽ rõ thực hư ngay, chứ có khó
gì.
Chiếc
hia trái vừa rút khỏi chân Hà thị lang vẫn nằm bất tỉnh, thì một con rết dài
gần một gang tay chạy vọt ra. Bá quan văn võ quên cả nghi lễ đua nhau chạy
đuổi, vung bốt ngà đánh dập nát con vật, trong khi hoàng thượng ngồi cười ngất
trên ngai vàng.
Rút
từ tập truyện Hạnh
Khái
Hưng
Nxb Đời nay, Hà Nội, 1938.
No comments:
Post a Comment