NGÀN ĐỜI NHỚ ANH
Ngày
thứ bảy ấy, mẹ tôi đưa tôi ra xe hỏa để trở về Ngoạn Mục. Mặc dầu có lời khuyên
bảo của bác sĩ chuyên môn, tôi biết tôi đã vĩnh viễn đi vào cuộc đời mới, đời
của kẻ mù lòa.
Cung
Giũ Nguyên
Thôi, hy vọng của tôi học cho hết mấy năm đại học để có chút danh phận
hay để làm nên một sự nghiệp, hy vọng của tôi cũng như của mẹ tôi đã tiêu tan
mất, như những màu sắc cuối cùng tôi thấy một buổi sáng nơi bờ biển Vũng Tàu,
rực rỡ một hồi rồi biến thành một màu xám đen, mãi mãi xám đen.
Ba tháng nằm ở bệnh viện không thay đổi được tình trạng. Tôi có
thể hiểu xuyên qua lời giải thích của nhà chuyên môn, nào nguyên nhân nào biến
trạng, nhưng tôi không thể chấp nhận hiện tại đau đớn và tuyệt vọng, vì hiện
tại ấy là của tôi. Bạn hữu thăm viếng tôi, an ủi tôi với những mẫu đời tươi đẹp
và can đảm của những người mù danh tiếng như cô Helen Keller hay chàng ca sĩ da
đen Ray Charles, nhưng tôi không phải là họ. Tôi chỉ là một đứa con gái hai
mươi hai tuổi, con duy nhất của một góa phụ sống về nghề rau quả ở một làng nhỏ
ở Cao Nguyên, không có biệt tài nào, không có phương tiện nào để vạch một con
đường đời khác những bạn đồng lứa, đồng thời, với tôi. Lớn lên phải đi học, học
phải lên lớp, đến lớp cuối phải thi và thi cho đậu, thi đậu lại tiếp tục học,
học để rồi mù, để trở thành gánh nặng cho những người chung quanh phải lo cho
mình mọi sự.
Một Dì phước trong bệnh viện đã khuyên tôi hãy tìm Chúa, hãy cầu
nguyện Chúa cho lại ánh sáng, Nhưng từ xưa nay, tôi chẳng biết đến Thượng Đế
nào, tôi đã trả lời với Dì phước là tôi thấy hổ thẹn phải cầu xin một Đấng mà
tôi đã không có cơ hội phụng thờ. Chúa là của Dì, nếu Dì muốn, Dì cứ cầu xin
cho tôi. Người nữ tu đành đáp lại một cách nhẫn nhịn: “Chúa là Chúa chung cho
tất cả, của những ai đã tin cũng như của những người không biết hay chống lại
Chúa nửa. Nhưng tôi sẽ không quên cầu xin cho Chị, Chị đừng ngã lòng, hãy về
tịnh dưỡng một thời gian đi…”
Xe hỏa đến ga Cầu Bảo một buổi trưa nóng gay gắt. Tôi nhận ra
những khoảng trống mặt trời chiếu trên đầu tôi, cho đến khi mẹ tôi dìu tôi vào
phòng đợi của nhà ga… Chúng tôi phải sang xe, nhưng xe đi Ngoạn Mục nửa giờ nữa
mới có. Chuyến tàu của chúng tôi đi từ Saigon đã rời khỏi nhà ga, tiếp tục con
đường ra Nha Trang. Những tiếng ồn trong phòng đợi đã bớt đi, nhưng lại có
tiếng xì xào của những hành khách đi Dalat như chúng tôi. Tàu không có. Đường
bị hỏng. Chuyến tàu bị hủy bỏ. Tôi hỏi mẹ tôi. Có tiếng lễ phép của một người
đàn ông xác nhận không có tàu lên; đường móc sắt phía trên Krongpha hư. Có lẽ
một hai ngày nữa mới sửa xong. Tôi không còn nghe tiếng người lạ ấy nữa.
Mẹ tôi bàn với tôi xuống Phanrang ở lại một hai bữa hay là thuê xe
hơi về Ngoạn Mục. Cả hai giải đáp không mấy thuận lợi. Với bệnh tật của tôi,
tôi nghỉ đến bao phiền phức gây thêm cho mẹ tôi. Đợi tàu nơi phòng khách này
cho đến khi nào không biết, cũng chẳng phải một lối thoát êm ả. Chúng tôi đang
còn phân vân thì có tiếng giày bước đến gần chúng tôi, và giọng nói êm ái, trẻ
trung, lịch sự, của người đàn ông khi hồi, cất lên một cách thiện cảm: “Tôi có
xe đi lên, nếu quý bà cần đi gấp, xin mời đi.
– Cám ơn thầy, mẹ tôi nói, nhờ thầy cho mẹ con tôi quá giang, chúng tôi
sẽ xin trả tiền.
– Thưa không, xe nhà, chỉ có mình tôi lên, rộng chỗ, và không có vấn đề
tiền nong gì cả. Các bà ở đường phố nào trên Dalat?
– Chúng tôi không ở trên ấy, nhà chúng tôi ở Ngoạn Mục. Đây là con gái
tôi, học ở Saigon nhưng phải về dưỡng bệnh.
Người đàn ông có lẽ đã cúi xuống để xách cái va-ly cho mẹ tôi, và có lẽ
thấy tay tôi đang quơ quào tìm hành lý nhỏ để bên cạnh, đã biết kính đen của
tôi che đậy bệnh tật gì. Tay người đã đở cái xách và đặt vào tay tôi.
Xe chạy khỏi cầu Tân Mỹ, khí trời trở nên dễ chiụ. Tôi ngồi ghế
sau với hành lý. Mẹ tôi ngồi bên cạnh người lái xe. Thỉnh thoảng, mẹ tôi ngoảnh
lại để đưa cho tôi nước uống, những múi cam bóc sẵn của người lạ mời. Mẹ tôi đã
trò chuyện nhiều với chủ xe. Tôi thoáng hiểu người ấy chừng ba mươi tuổi, có
một hiệu sách Nam Đồng, gần chợ Dalat. Ông ta chỉ vì thích đọc sách mà trở
thành người bán sách, chưa có gia đình, không cha mẹ anh em, sống một mình, khi
nào cao hứng thì đóng cửa hiệu để đi du ngoạn hay vào rừng kiếm phong lan. Mẹ
tôi nắm lấy cơ hội, nói có một số hoa, không ai săn sóc, sẽ biếu ông.
Đến Ngoạn Mục, mẹ tôi chỉ đường cho ông Nam Đồng rẻ vào vườn nhỏ
bé của chúng tôi. Miễn cưỡng lắm, ông mới bằng lòng vào nhà, để chứng kiến cảnh
vú già tôi ôm choàng tôi khóc lóc thảm thiết. Hình như ông Nam đồng chịu uống
một tách nước trà nóng, nhận một đôi phong lan, đi quanh vườn rau để thấy công
việc làm ăn của mẹ tôi. Trở vào nhà, ông đã nói đôi lời trước khi mẹ tôi tiễn
ông ra cổng. Rồi tiếng máy nổ và xe chạy. Tôi trở lại đời yên tĩnh và âm u của
tôi.
Mãi gần một năm sau, tôi mới có dịp nghe lại tiếng nói của
ông Nam Đồng. Ông đến cùng vài người đứng tuổi, bà con gì với ông ấy, không chỉ
để thăm mẹ con tôi, mà đến để bàn một chuyện chúng tôi không bao giờ nghỉ đến.
Tôi vẫn mù lòa, đã quen thuộc khung cảnh, tôi không thấy khó chịu gì lắm khi đi
đứng, di chuyển. Tôi làm được đôi việc để giải khuây hơn là giúp đỡ mẹ tôi hay
vú già. Một người cậu của tôi đã cho tôi một máy hát và rất nhiều đĩa hát; nghe
âm nhạc cổ kim là giải trí thường xuyên của tôi. Mấy bạn học của tôi đã cho tôi
một con chó xù, nó là bạn duy nhất luôn luôn bên cạnh tôi. Thế mà ông Nam Đồng
lại có ý xin cưới tôi làm vợ. Mẹ tôi cảm động, hỏi ý kiến tôi. Tôi từ chối, và
mẹ tôi cũng đồng ý với tôi như vậy. Ngoài những lý do riêng của mẹ, riêng của
tôi, hai mẹ con tuy không nói thẳng ra, không muốn để cho một người nào khác,
chẳng tội tình gì, phải đến chịu gánh nặng săn sóc một người bệnh tật suốt đời.
Tôi còn nhớ lời từ khước của mẹ tôi: “Xin cám ơn ông bà, cám ơn cậu, con tôi
bệnh hoạn. Tôi cầu Trời khẩn Phật cho cháu chóng lành để sống được một đời bình
thường. Bây giờ thì không thể nghĩ đến chuyện cưới gã được.” Lại những tiếng
thì thầm nơi cửa, và tiếng nhiều chiếc xe chạy từ từ. Đứng nơi cửa sổ, tôi đưa
mặt ra phía đường để tưởng tượng hình ảnh những chiếc xe lăn sau hàng cây mơ.
Trời Phật đã thương mẹ tôi nhiều hơn tôi. Mùa thu năm ấy, mẹ tôi
từ trần sau những cơn sốt liên miên. Ở nơi hẻo lánh, vì không gần thầy thuốc,
vì mẹ tôi quá tin nơi thuốc cổ truyền và số mạng, mẹ đã bỏ tôi lại bơ vơ với vú
già và một đôi vợ chồng giúp việc nơi vườn rau. Tôi đã hết nước mắt để khóc.
Không ai có thể thấy vực thẳm đau khổ của tôi xuyên qua cặp kính đen, với đôi
mí mắt luôn luôn nhắm kín. Cậu tôi và một số thân thuộc được tin đã đến lo việc
chôn cất và khuyên tôi về ở với họ chốn An Xuyên là quê hương của cha tôi. Tôi
không muốn đi đâu nữa. Dời đến nơi nào, vũ trụ tôi cũng chỉ là một vũ trụ nhỏ
bé trong màn đêm. Nơi nhà mẹ tôi, tôi đã quen thuộc những tín hiệu của âm
thanh. của mùi hương và thể vật; chúng đã trở thành một quyển sách phong phú
tôi dùng được và tìm ra được ít nhiều hứng thú. Tôi nhớ câu chuyện người mù của
thi sĩ Lamartine nhắc lại trong hồi ký: “Tôi thấy tiếng kêu của sơn ca buổi
sáng, tôi thấy tiếng hót của họa mi buổi chiều…” Tôi cũng có một kinh nghiệm
tương tự, hình ảnh nơi đây đã trang điểm cái nhìn bên trong của tôi rồi. Dời đi
nơi khác lại cần một thời gian để thích nghi những phản ứng mà tôi xét không
còn can đảm và kiên nhẫn đễ vượt lên những khó khăn nửa. Vú già sẽ tiếp tục bảo
bọc tôi, và vợ chồng người trông nom vườn cũng hứa tiếp tục đảm đương mọi sự
như có mẹ tôi vậy. Đời sống vật chất không thay đổi gì mấy, nhưng vắng mẹ tôi,
tôi cảm thấy đến mấy lần mồ côi.
Khoảng mười ngày sau lễ an táng mẹ tôi, vù già cho biết có ông Nam
Đồng đến. Tôi chẳng hiểu những gì trong thâm tâm tôi đã khiến khi gặp lại ông
Nam Đồng, người tôi thường gọi là ông, tôi bỗng gọi anh. Cảm xúc của anh không
kém. Lần đầu tiên anh cầm tay tôi, vừa an ủi tôi, vừa hỏi về những ngày cuối
của mẹ tôi, và những dự định tương lai của tôi. Vú già vui mừng không kém tôi
khi mời được anh ấy ở lại dùng cơm trưa. Và anh đã nhận như thể là một cử chì
từ tâm, muốn cho tôi cảm thấy bớt hiu quạnh, dù cho chỉ là trong một khoảnh
khắc. Nhưng rồi khoảnh thời gian ấy có thể nối dài. Anh đã nhắc lại lời ước
vọng năm trước, và lần nầy, cũng chẳng hiểu vì sao, tôi lại bằng lòng. Gánh
nặng bây giờ trở nên quá lớn cho vai tôi, tôi cần người phụ lực. Nhưng tôi
không muốn ràng buộc anh, hoặc tôi khiếp sợ một cảnh đổ vỡ thê thảm có thể xảy
ra sau nầy. Tôi chỉ bằng lòng làm người bạn của anh mà thôi với một số điều
kiện. Anh chấp nhận không phải để lấy rồi, mà với sự hiểu biết chín chắn và
thành thật.
Quyết định của tôi xảy ra đồng thời với cuộc chinh chiến. Khói lửa
đã lan rộng trên đất nước. Cho đến nơi Ngoạn Mục hiền lành, mùi bom đạn cũng
không tha. Bây giờ tôi mừng có anh tôi bên cạnh. Anh đã giẹp bỏ hiệu buôn;
những sách vở anh thích đọc, những vật kỷ niệm anh quyến luyến, anh đã chở trên
cái xe xưa, đem về nhà tôi. Anh đã tu sửa lại phòng của mẹ tôi bên cạnh phòng
tôi, để ở riêng biệt. Anh đã tôn trọng lời hứa, suốt bao nhiêu ngày tháng sống
bên tôi, anh chẳng có lời nói, cử chỉ nào vượt qua biên giới chúng tôi đã vạch
định. Những chiều lạnh, cùng ngồi cạnh lò sưỡi, anh xem sách, tôi đan áo, tôi
nghỉ và mơ ước anh sẽ đến đặt tay trên vai tôi để cho cảm giác gần nhau hơn
nữa. Nhưng anh đối xử với tôi như người em gái. Chỉ trong công việc nhà, trông
nom vườn rau, trồng thêm hoa quả, giao thiệp với bạn hàng, anh đóng vai trò gia
trưởng có trách nhiệm. Đối với vú già, đối với những người giúp việc hay các
gia đình lân cận, anh là chồng chính thức của tôi.
Một buổi sáng, cũng như thường ngày, anh dậy thật sớm. Tôi nhận ra
những tiếng động ở phòng bên cạnh, đến phòng bên ngoài. Anh sửa soạn bình tách,
pha cà phê, uống một chén, rồi để sẵn phần của tôi trên bàn trước khi rời khỏi
nhà. Hôm ấy anh phải đi xem những xe đến chở bắp cải. Nhà vắng tanh, vú già đi
chợ. Tôi làm biếng thu gọn mình trong mền ấm, nằm mãi trên giường, vừa nghe
nhạc và mơ mộng. Có tiếng chó sũa. Có người làm gì với chó đến nỗi chó không
sũa nữa. Những tiếng đi thình thịch vào nhà làm rung rinh thềm ván. Có lẽ anh
có việc gì về gấp. Tiếng bước đến gần. Cửa phòng tôi không gài được đẩy ra. “Có
phải anh không? Anh cần gì?” Chẳng có tiếng đáp. Tôi vùng dậy Có cánh tay đàn
ông choàng lấy thân tôi. “Anh làm gì thế? Đừng! Sao anh quên lời hứa? Em sợ
lắm. Đừng, anh!” “Có gì đâu mà sợ?” Tiếng nói kinh dị. Hơi thở lạ lùng.
Một bàn tay thô kệch và hung hãn như chân của thú dữ. Tôi biết không phải anh
tôi rồi. Tôi kêu thất thanh: “Ông là ai? Đồ vô loại! Vú già ơi! Cứu tôi, làng
xóm ơi! Anh Nam Đồng ơi.” Tôi tưởng tôi sắp chết. Tôi vẫy vùng để thoát vòng
tay của tên võ phu. Tôi dùng răng, dùng móng tay để cấu xé nhưng tên khốn nạn
không buông tha. Một cái miệng nặc cả mùi rượu, thuốc lá và răng thối, chà trên
má tôi. Nó muốn vật tôi lên giường, tôi nhào lăn xuống sàng, đồ đạc bên cạnh
giường đổ tung. Tôi nhớ đến cái đồng hồ reo, vờ lấy quăng vào con thú. Đồng hồ
đập nát một cửa kính. Tôi muốn lao ra cửa sổ. Tay nó níu chặt tôi lại. Tôi cố
la lên cầu cứu. Tôi sắp ngất xỉu.
Có tiếng chạy thình thịch bên ngoài. Cánh cửa bị đạp tung rất
mạnh. Tay kẻ dữ đã thả tôi. Có tiếng thét lên, lúc đầu tôi không nhận ra tiếng
của anh tôi. “Mày làm gì trong nhà nầy?” Tiếng thét đầu tiên vang dội, tiếp đến
là tiếng ẩu đả. Có những va chạm dữ dội của cây gỗ trên thân hình, trên bàn
ghế. Tôi không thể biết ai đang đánh ai, không biết ai chịu những đòn nặng. Tôi
không có mắt để giúp anh tôi. Tôi sợ anh tôi bị tên võ phu giết chết. Tôi lần
đến cửa sổ kêu vú già, kêu người giúp việc, kêu làng xóm. Hai người đã xô đẩy
nhau ra khỏi phòng, rồi ra khỏi nhà.
Những bước chạy thình thịch một chốc rồi tan dần. Có tiếng xe chạy. Một
chốc yên lặng kinh hoàng. Tôi đã không còn kêu la được và cũng không thở mạnh
được. Tôi lần ra khỏi phòng, không dám gọi, phập phồng trước điều không thể
thấy và không thể đoán. Tôi không còn sức để đứng tựa nơi vách tường, tôi đã
ngã quỵ xuống.
Nhưng anh tôi, chứ không phải kẻ võ phu, đã trở về và từ xa đã lên
tiếng để yên lòng tôi. “Anh xin lỗi em. Từ nay anh khômg để em một mình nữa”.
Anh ôm tôi, đỡ tôi dậy. Tôi đưa tay rờ nơi má anh, một má ẩm ướt không biết vì
mồ hôi hay máu, nước mắt hay nước mưa. Anh cúi đầu xuống và, lần đầu tiên, sau
mấy năm quen biết và sống chung, tôi có cảm giác sung sướng lạ lùng khi môi tôi
gặp được môi anh.
Phòng của tôi hư nát cả. Anh biểu tôi, trong khi chờ sửa lại cho
xong, tôi qua ở tạm bên phòng anh. Nhưng trong ý tôi, không còn chữ tạm nữa.
Chính tôi phá trước lời giao hẹn bao nhiêu dè dặt và lo ngại của tôi không thể
còn nữa. Từ nay tôi sẽ mãi mãi với anh và của anh.
Phải chi chuyện đời tôi chấm dứt nơi đây. Phải chi thời gian dừng
lại để cho hạnh phúc của tôi có trong mấy tháng sau đó, được kéo dài vĩnh viễn.
Không. Hãy đem cho tôi tất cả những khăn tang trên đời để thấm cho hết nước mắt
của tôi. Anh tôi không phải là chiến sĩ nhưng chiến tranh cũng tìm đến anh tôi.
trong lúc anh lái xe lên Cầu Đất. Anh đã đi sớm để về sớm, không để tôi một
mình lâu, với vú già. Xe anh đã đạp phải mìn.
Không ai cho phép tôi động đến xác của anh. Tôi đoán chừng lý do
là xác anh không còn toàn vẹn, cũng như chiếc xe của anh. Thứ bảy năm nào đó,
mới năm nào đó, chiếc xe ấy, và anh ấy, đã đưa mẹ con tôi từ ga Cầu Bảo về. Có
phải nước mắt tôi, linh nghiệm hơn bao nhiêu thứ thuốc tôi đã phải uống. Hay có
lẽ nào nhờ những lời của Dì phước ở Bệnh viện Mắt hứa cầu xin cho tôi, với
Thượng Đế của Dì? Một buổi sáng mùa Xuân, trùng với mùa Phục Sinh, tôi ngạc
nhiên thấy được điểm sáng nhỏ, điểm sáng lớn lần. Tôi hét lên một tiếng vui làm
cho vú già tôi tưởng một thảm họa khác đã đến với tôi. Tôi thấy rồi. Tôi thấy
rồi, vú ơi. Tôi chưa thấy rõ ràng vú. Nhưng điểm ánh sáng đưa cho tôi hy vọng
bệnh lòa của tôi dần dần sẽ hết. Quả thật, mấy tuần sau nữa, tôi đã nhận ra
những hình vật, khám phá khung cảnh tôi sống, tôi nhìn thấy được hình dáng và
màu sắc của những hoa đào ngoài sân, nhìn thấy tất cả chi tiết phòng hạnh phúc
ngắn ngủi của tôi nay phải mãi mãi vắng bóng chồng.
Ánh sáng đã trở lại với tôi, để thay anh, cho tôi khỏi sống dưới
sự đe dọa thường xuyên của kẻ võ phu. Hôm ấy, tôi đã hỏi anh tôi có biết tên
nào đã tấn công tôi. Anh đã trả lời một cách thãn nhiên: “Em cần gì biết đến
lai lịch của một thứ đê tiện. Nó không phải một, nó là nhiều, nó cả một loài,
cả từng giống, căn cước của nó là võ lực, cưỡng bức, bạo tàn, sát nhân. Và hính
bóng chúng cái nào cũng giống cái nào, biết được một, là biết tất cả. Vì chúng
cùng chung một thái độ, một thứ hành vi thất đức. Chúng có từ khi tạo thiên lập
địa và sẽ còn mãi mãi trên quả đất nầy. Thứ cặn bã của nhân loại ấy xuất hiện
khi nào xã hội suy đồi, cũng như những vật và con thú bẩn trủi lên bờ biển khi
nước sạch rút đi xa.
Với cặp mắt tìm lại được, tôi sẽ biết nhận dạng để đề phòng, để tự
vệ. Nhưng anh? Tôi tiếc đến khi thấy đươc cảnh, vật và người chung quanh tôi,
tôi không còn có được mặt anh để chiêm ngắm, để nhìn cho tường tận, để đối
chiếu với hình ảnh tôi chỉ có bấy lâu nay trong trí tưởng tượng. Tôi tìm mãi
trong nhà một giấy tờ nào về anh để biết anh một cách đầy đủ hơn nữa. Tôi không
biết tên thật anh là gì, Nam Đồng chỉ là một hiệu bán sách. Tôi không có được
một tấm hình của anh để thờ phụng. Có lẽ anh không còn nghĩ đến việc chụp hình
khi vợ mình đã mù lòa. Anh chân tình và thâm tình đến thế. Anh kín đáo đến nỗi
chỉ xuất hiện và sống bên cạnh tôi khoảng thời gian tôi cần ánh sáng và sự che
chở của anh mà thôi. Anh chết đi nhưng vẫn còn nói với tôi biết bao nhiêu điều.
Anh không để lại hình ảnh nào, nhưng tôi đã thấy anh, thấy một phần khuôn mặt
anh nơi bất cứ đâu có lời nói dịu hiền, nơi bất cứ đâu có hành vi đượm tình
thương vô vụ lợi ngọt ngào. Anh. Anh người tôi yêu kính. Ngàn đời em sẽ nhớ
anh.
Cung
Giũ Nguyên, 1971
Nguồn: https://tieulun.hopto.org/
304Đen – llttm - sgtc
No comments:
Post a Comment