Tình trong xâu chuỗi hạt
Đứng trên đê cao nhìn xuống, cái nhà nhỏ càng nhỏ, thấp
lè tè dưới mặt đất. Hết nhảy đường đứt nầy đến đường đứt khác, Tín trước Tùng
sau, men theo bờ ruộng về hướng nhà bà Hai, một cơ sở nuôi dưỡng lực lượng cách
mạng trong thời kháng chiến chống Mỹ ở xã Song Bình, huyện Chợ Gạo.
Vừa đi Tín
thỏ thẻ với Tòng: Nhà bả hồi
đó rộng lớn cỡ nào anh đã biết, bây giờ chỉ vậy đó thôi, một cái nhà khiêm tốn,
hay nói đúng hơn là cái chòi. Sau khi anh bị thương chuyển đi rồi, quân đội
Việt Nam Cộng hòa thường xuyên càn quét vào vùng nầy, họ lùng sục trong địa
hình rồi đốt sạch nhà cửa xung quanh. Họ cho rằng xóm nhà nầy là chỗ Việt Cộng
dựa dẫm. Khi đốt, họ không cho chữa, không cho lấy đồ đạc ra, đợi cháy rụi hết
họ mới chịu rút đi, chủ nhà chỉ còn than trời, trách đất.
Sau vụ đốt
nhà đó, cả nhà bà Hai, mỗi người chỉ còn một bộ đồ dính thân và một cây me bị
lửa tạt sém hết nửa thân, hiện giờ nó cố gượng sống với những ngày tàn bên cạnh
một khổ chủ.
Đến nơi, Tín
rón rén bước vào nhà, vỗ tay đánh động rồi hỏi ngay:
– Bộ bịnh
sao nằm chèo queo vậy bà ? .
– Gió bấc
lạnh thấu xương, nằm co cho ấm .
Bà Hai ghé
mắt sát rồi đấm vào lưng Tòng nói:
– Mồ tổ mầy,
bị thương rồi biệt luôn, tao tưởng mầy theo ông bà rồi chớ! Bây giờ mầy ốm, tóc
bạc lỗ chỗ khác xưa nhiều. Nếu gặp ngoài đường, không ai nói, tao sẽ mặt lạ với
mầy ! .
– Đã hơn 30
năm rồi còn gì – Tòng nói.
Lũ nhỏ ùa
vào, chúng há hốc miệng nhìn chòng chọc vào Tòng và Tín. Bà Hai nhìn lũ trẻ
nói: Lũ con thằng Dững đó đà, vừa trai
vừa gái bốn năm đứa lủ khủ. Nhà thằng Dững ở kế bên tao, nhà thằng Dừa ở kế bên
thằng Dững – một dãi, ba mẹ con ở khít đeo. Nay tụi nó đi cắt lúa trả công cho
người ta ở kinh dưới, gần nhà con Bê.
Thấy Tòng và
Tín đứng xớ rớ, bà Hai giục mấy đứa nhỏ về nhà xách ghế. Mấy đứa nhỏ vụt chạy
đi, bà lẩm bẩm: Cái giường
xệu xạo thế nầy, nếu hai đứa bây chất lên nữa sập ngay, thanh tre mà hả họng hả
hầu hết rồi !.
Mấy đứa nhỏ
xách ghế tới, chui vào chỗ Tòng và Tín rồi ra cửa đứng tiếp tục nhìn vô. Bà Hai
nói như lịnh: Hai đứa ngồi
ghế đi, còn lũ nhỏ ra ngoài chơi, đừng đứng cửa nhìn vào không nên!.
Lũ nhỏ vừa
dợm chạy, Tòng gọi giựt chúng lại, thay vì gói bánh xâm banh định cho má Hai,
cho lũ trẻ tội nghiệp nầy. Tòng vừa chìa gói bánh ra, bà Hai hước lấy, miệng
lẩm bẩm: Để tao chia, không thì chúng
giành ăn móc họng với nhau bây giờ.
Tòng đưa gói
bánh cho bà Hai cũng là lúc mấy đứa nhỏ đổi hướng nhìn – thay vì nãy giờ chúng
nhìn Tòng, bây giờ chúng đổ xô nhìn má Hai, đúng hơn là chúng nhìn theo gói
bánh. Chúng dõi theo coi Bà chia có đồng đều không.
Bà chia đều
mấy cái cho mỗi đứa rồi đuổi chúng đi, trông chúng chỉ vừa lòng với hiện tại.
Bao nhiêu bánh còn lại bà gói để trên nắp lu. Thứ bánh xốp xộp, mỗi đứa chỉ có
mấy cái thấm vào đâu, tráng mép đã hết.
Câu chuyện
người lớn vừa bắt đầu, lũ trẻ lại tràn vào, nhìn dáo dác rồi bu quanh cái lu,
mắt đổ dồn vào gói bánh còn lại. Thấy vậy, Tòng mở toạc gói bành ra nói: Các cháu cùng ăn đi, hết thôi rồi ra ngoài
chơi.
Lũ trẻ bao
tròn cái lu, miệng nhai tay bốc, trong chốc lác đã hết sạch ký bánh mà xem mòi
chưa thấm. Một đứa nắm
tóm miếng giấy trút vào miệng vớt vát những miếng bánh vụn rồi cùng vọt ra sân,
trả lại sự yên lặng cho người lớn.
– Lũ mất
dạy!…– bà Hai nói với vẻ bực bội.
– Sao
lại mất dạy, bảo đi lấy ghế chúng chạy đi ngay, ngoan đó chớ. Có lẽ chúng đói
và thèm nên mới tươm tướp như vậy. Con nít, đừng chấp nhứt chúng trong việc ăn
uống bà ơi?! – Tín nói đỡ cho lũ trẻ, xả căng.
Bà hai
nói với vẻ bực bội: Con nhỏ bự
đầu nhứt trong đám, đã 14 tuổi rồi mà nó ăn vụng không nói được. Mỗi ngày tao
nấu một lon gạo, ăn sáng, số còn lại để chiều, thế mà nó cứ lỏn vào ăn hết. Đi
đâu tao đều khóa cửa lại, nhưng nhà nầy khóa cửa ăn thua gì, dừng lá xé, vạch
vách chui vào thôi.Tao nói thứ gì ăn được hễ để hở là nó ăn, giữ mèo còn dễ hơn
giữ nó. Tao nói nó ăn vụng thành tật rồi ! …
Bà Hai càng
nói Tòng càng lường được nỗi khó khăn túng quẩn của gia đình và sự bất hạnh của
lũ trẻ. Con những gia đình khá giả, bánh bao, sữa… mà chúng còn không chịu ăn
uống, còn phùng thẩy. Tín nói đúng, do đói, do thèm nó mới đòi ăn. Đòi không
được phải tự đi kiếm, nếu kiếm ngoài đường không có thì vào nhà, không cho thì
lén lấy, ăn vụng chớ có chi là lạ?. Chúng nó chưa trưởng thành, đang như những
con chim non, việc ấm no phụ thuộc vào ông bà, cha mẹ. Sao người lớn không tự
trách mình mà lại trách chúng ?!. Tòng muốn giãi bày cảm nhận của mình như thế
với bà Hai, nhưng sợ bà giận, cuộc viếng thăm mất vui, không trọn vẹn. Tòng lờ
chuyện lũ nhỏ, sang chuyện khác:
– Sao bà cất
nhà hẹp té, thấp lè tè, vào ra phải khòm, nếu không lá xốc vào mắt chớ chơi
đâu?!.
– Tháng
trước gió sập, mới cất lại tốn 200 lá xé vừa lợp vừa dừng. Ăn nhiều chớ ở bao
nhiêu. Tiền bạc eo hẹp, nhà nhỏ cất cao coi sao được. Tao với còn không tới mái
kia mà.
Tín bật cười
khan. Bà Hai hỏi:
– Tao nói thế
không đúng sao mầy cười ?
– Nói là nói
người khác, chớ bà đi khòm cái đầu gần sát đất mà xốc cái nỗi gì. Đúng là nhà
bà vào lòn ra cúi – cùng cười.
– Dượng Hai
mất hồi nào ? – Tòng hỏi.
– Khi tụi
bây rút đi khỏi vùng nầy, nhà bị đốt, ổng sinh ra bịnh khùng khùng điên điên,
đi tầm bậy tầm bạ rồi mất tích luôn, kiếm hoài không được, hết tiền hết bạc,
riết oải, lâu lắm rồi bặt tăm bặt tích không biết còn sống hay chết… Biết sao
giờ, tao lập bàn thờ, lấy ngày ổng đi lần chót làm ngày giỗ. Bây thấy đó, có hình
hẹo gì đâu. Năm chúng đốt nhà cháy cả giấy Căn cước. Sau đó xin làm giấy lại,
bọn làng đú vời, ghét bỏ ở lậu luôn. Thằng Dững lớn thây cho nó vào du kích,
đụng trận thương tích đầy mình, hiện giờ nó “nắng không ưa, mưa không chịu, nhác gió, kỵ mù sương”.
– Bà ở một
mình rồi sống bằng cách nào ? – Tòng hỏi.
– Số ruộng
hồi trước tao chia cho thằng Dững, thằng Dừa, chừa lại 3 công, tao đâu làm nổi,
cho thằng Dững mướn, mỗi năm nó chung cho tao 12 giạ lúa, đủ ăn trong năm. Ngặt
nỗi, năm nào thất mùa, thằng Dững nó không chung hoặc chung không đủ thì gay.
Nó không có mà đòi cái gì, nó là con không lẽ tao đi thưa gởi nó coi sao được,
chửi mắng nó chi cho thêm mỏi miệng.
Như sực nhớ,
bà Hai hỏi: “Hai đứa bây
có biết thằng Mười Kỷ không, nó làm chức gì đó lớn lắm ở Bến Tre. Hồi chống Mỹ,
gánh nó ra vô nhà tao ấp lẫm. Cách đây mấy tháng, tao sang Bến Tre tìm
thăm nó. Người ta chỉ chỗ nó làm việc, đến cửa lính gác không cho vô. Tao tự
xưng là người thân của thằng Kỷ. Họ báo vào trong, lát sau thằng Kỷ cho người
ra cổng rước tao vô tận dinh. Gặp tao nó đâu có nhớ, nói tới nói lui nó mới
nhận ra tao – đúng là thằng mau quên.. Lâu mới gặp nhau, thăm hỏi chưa cạn lời,
nó báo bận đi họp hành gì đó. Nó nhét vào túi tao ít tiền và cho xe đưa tao ra
đến bến xe. Sau khi nghe tao kể việc đi thăm thắng Kỷ, thằng Dững cũng mò qua
bên ấy, nhậu quậy sao đó, bị thằng Kỷ rầy. Từ đó đến nay nó thụt luôn không dám
bén mảng qua bên ấy nữa”.
Tín lẹ
miệng: “Ổng Mười Kỷ một thời làm bí thư
tỉnh ủy Bến tre, tụi nầy còn lạ gì về ông ấy. Nghe đâu ổng đã về hưu, cất nhà
giống cái chùa ở cạnh cầu Gò Đàn, ngoại ô thị xã Bến Tre, bên bờ sông Cái
Cối…”.
Bà Hai lại
khoe: Mấy thằng cán bộ sống sót
trong chiến tranh, đang làm việc ở Chợ Gạo nầy, có đứa nào không biết tao. Có
lần tụi nó kéo đến đây thăm tao. Chúng nó nói, bà lớn tuổi ở một mình không
nên, chú Dững là thương binh, chúng tôi
sẽ đề nghị trên cấp cho bà cái nhà tình nghĩa, nếu không được cũng trợ cấp cho
chú Dững khoảng 10 triệu đồng để sửa nhà chú ấy cho đàng hoàng hơn rồi rước bà
qua đó ở cho có mẹ có con. Tụi nó nói tao nghe cũng phải. Nhưng đến nay chưa
thấy gì, có lẽ còn lo cho những người khó khăn hơn gánh tao. Tao lo là lo
cho thằng Dững, thằng Dừa, chớ còn tao thì yên bụng rồi, đã mua được cái thọ
dưỡng già – đang gởi bên nhà thằng Dững. Tao ăn chay trường, gạo có sẵn, chỉ
mua đậu hủ, nước tương về “tẩn lịm” với ba trái đậu bắp, đậu rồng, cà chua…
trồng quanh nhà là xong việc.
Tòng nhìn bà
Hai, cười, nói: Bà ăn chay riết chắc chết
sớm, còn đeo chi xâu chuỗi lòng thòng cho thêm nặng?!.
Bà hai cúi
mặt giây lâu rồi đứng dậy nói: “Hai đứa ngồi
chơi, tao qua coi thằng Dững, thằng Dừa về chưa”.
Bà Hai đi
rồi, Tín kéo ghế lại gần, ghé miệng nói nhỏ vào tai Tòng:
– Tôi đã bị
rồi…, vậy là bả giận anh rồi đó !.
– Tao làm gì
bả giận ?
– Anh phê bả
ăn chay và đeo chuỗi chớ còn gì !
– Tao nói
thế không phải sao ? – đâu lẽ chỉ vậy mà bả giận!.
– Thôi ông
ơi, để tôi kể cho ông nghe: Cách nay vài
năm, bả đến thăm tôi. Vợ tôi mua thịt cá làm cơm đãi bả. Khi dọn ra, bả nói tao
ăn chay, làm lỡ bộ. Trong khi chờ vợ tôi đi mua đồ chay, tôi vui miệng khuyên
bả nên ăn mặn để tăng sức và đừng đeo chi xâu chuỗi thêm nặng như anh nói. Cũng
như hôm nay, bả ngồi lặng thinh hồi lâu, buồn bã phân trần: Mầy bảo tao bỏ xâu chuỗi khác nào bảo
tao bỏ người thân của tao sao ! Người thân tao đông lắm, trong đó có mầy.
Tao không biết chữ, mỗi hột trong xâu chuổi nầy là một đứa theo Cách mạng mà
tao quen biết, tao coi chúng như những con tao. Từ sau Tết Mậu Thân (1968), lũ
nó lần lượt hy sinh, sợ không nhớ nổi, tao làm cái gút ở giữa xâu chuổi, đứa
nào hy sinh tao chuyển một hột về bên trái – phía trái tim mình. Mỗi lần chuyển
là mỗi lần tao rơi nước mắt và niệm Phật. Tao ăn chay kỳ, niệm Phật tụi nó cũng
chết. Tức mình tao ăn chay trường, niệm Phật hàng đêm, ấy thế mà lũ con tao vẫn
tiếp tục chết. Xem đây nầy, hơn phân nửa số hột đã nằm bên trái.Tụi bây không
biết đó chớ, ăn chay sướng ích gì, lúc đầu không quen xót ruột lắm, ngủ nghê
không được, mắt thâm quầng, nhưng riết rồi nó cũng quen. Bây giờ, hễ hưởi mùi
thịt cá là tao phát buồn nôn. Đây là xâu chuỗi bình thường, nó như bàn tính của
người Tàu, nếu đem quăng nó bên đường chưa chắc có ai thèm lượm. Ấy thế,
có nó đỡ tẻ lạnh. Đêm đêm, tao lần từng hột chuỗi như mò về quá khứ
để mà nhớ mà thương… Ăn chay, lần chuỗi kiểu của tao như lần mò xuống địa ngục
chớ đâu phải tìm lên thiên đàng. Nói đến đó, bả nhìn vào em, rơm rớm nước mắt.
Em lặng cả người, cổ nghẹn, không cầm được nước mắt.
Thấy bà Hai
về đến cửa, Tín ngưng kể, làm tĩnh, hỏi vói ra:
– Hai đứa nó
về chưa ?
– Giờ chưa
về đến chắc là “đụng trận” rồi. Hễ đụng trận thì còn tính gì giờ giấc. Cũng đã
tối rồi, trời sắp mưa, hai đứa về kẻo mưa đường trơn trợt khó đi lắm.
Trước mặt bà
Hai, Tòng ôn tồn:
– Do
không hiểu, hồi nãy con vô tình nói có phần xúc phạm đến tình cảm riêng tư của
dì, xin dì bỏ qua cho!. Đây là cái mền, con tặng dì phòng lạnh, khi nào tiện
tụi con trở lại thăm dì .
– Bộ thằng
Tín nói gì với mầy? – Thì
vậy đó…, Dì cám ơn con.
Trên đường,
Tòng tâm sự với Tín: Đúng là bà
Hai nghèo dưới mức đủ ăn, từ cái bàn thờ đến tất cả những vật dụng trong nhà
không có gì đáng. Chỉ cần đứng một chỗ trong nhà nhìn thấykhông sót những gì bà
có, đặc biệt là không thấy dép ?!.
Với giọng
trầm buồn, Tín phụ họa: Kẻ chết đuối
không thể vớt người chết trôi. Thôi thì từ nay mình cũng làm theo kiểu “lá rách
ít đùm lá rách nhiều”. Theo em, cái nghèo hiện nay đâu chỉ đeo đuổi bà Hai, nó
đeo đuổi bất cứ ai không còn đủ sức chạy đua với cuộc sống – kể cả tôi và
anh. Từ hữu sản biến thành vô sản thì dễ, ngược lại quá khó. Chẳng biết bọn
tham quan ngày nay, lòng nhân ái của họ chó ăn hết rồi sao, cứ hết vun vén cho
cá nhân đến xây trụ sở, đền đài, lăng tẩm…,bỏ dân sống chết mặc bây?.
Gió đổi
chiều, mây đen sà xống thấp báo hiệu sắp có cơn mưa,Tòng giục Tín cố lên. Khi
hai người sóng vai, với giọng trầm buồn, Tòng tổng quát: “Rốt cuộc cũng chỉ thay đổi tập đoàn thống
trị bóc lột nầy bằng tập đoàn thống trị bóc lột khác mà thôi?!”
Mỹ Tho, 26/01/2016
Thiện Tùng
304Đen – Llttm - VT
Ghi Chú:
Bài viết
này của một người cộng sản, nội dung phần lớn nói về họ, có thể người đọc không
đồng ý, nhưng ở đoạn kết luận, đọc xong, ít nhất cũng cho thấy tác giả TT đã nhận
ra được sự khác biệt giữa cái suy nghĩ của họ ngày trước và bây giờ, dù có phần
quá muộn, 304Đen xin được phép để quý anh chị nhận xét thêm.