Saturday, May 22, 2021

Thi Ca Cổ Điển Việt Nam: Lục Ngôn Thể - Nguyễn Cang

 

THI CA CỔ ĐIỂN VIỆT NAM: LỤC NGÔN THỂ

 Nguyễn Cang


 


    Trước khi đi vào vấn đề Lục ngôn thể, tôi xin nhắc lại hai định nghĩa:  Đường luật và Đường thi.

1. Thơ Đường (tức là Đường Thi): là những bài thơ của các thi gia Trung hoa sáng tác trong khoảng từ thế kỉ 7 - 10 (618 - 907) vào thời đại nhà Đường , nổi tiếng nhất là 300 bài được gọi là Đường thi tam bách thủ (三百首). Trong số đó có một số được làm theo thể thơ Đường luật, số còn lại làm theo các thể thơ khác, phần lớn là thơ cổ phong ( hay cổ thể, là loại thơ có trước đời nhà Đường, không theo niêm luật nhất định). Cho nên gọi là Đường Thi hay Thơ Đường thì phải là những bài thơ được sáng tác vào thời đại nhà Đường bên Trung hoa nhưng không nhất thiết làm theo luật của Thơ Đường Luật.

2. Thơ Đường Luật: là thơ làm theo Thi luật đặt ra từ đời nhà Đường bên Trung Hoa, có luật lệ  nghiêm nhặt. Sang Việt Nam, Thi luật được gọi là thể thơ Đường luật,  còn gọi là thơ cận thể (để phân biệt với cổ phong là thơ cổ thể)  phải tuân theo các qui tắc bắt buộc, rất nghiêm nhặt, gò bó .  Có hai thể là thất ngôn và ngũ ngôn .

2.1 Về hình thức

a. Theo số chữ trong câu:

- Ngũ ngôn, mỗi câu 5 chữ.

- Thất ngôn, mỗi câu 7 chữ.

b. Theo số câu trong bài:

-Tứ Tuyệt hay Tuyệt Cú: mỗi bài bốn câu.

- Bát Cú: mỗi bài tám câu.

Như vậy Thơ Đường Luật có 4 dạng là: Ngũ Ngôn Tứ Tuyệt, Ngũ Ngôn Bát Cú, Thất Ngôn Tứ Tuyệt và Thất Ngôn Bát Cú.

Trong bài nầy xin bàn về Đường  thi và thể lục ngôn trong thi ca cổ điển và hiện đại  Việt Nam.

Đường Thi: gồm thơ 5 chữ, 6 chữ  và 7 chữ : Ngũ ngôn Cổ Phong, Ngũ ngôn Tứ tuyệt, Ngũ ngôn Bát cú, Thất ngôn Cổ phong, Thất ngôn Tứ tuyệt, Thất ngôn bát cú, Lục ngôn thi.

LỤC NGÔN THỂ LÀ GÌ ?

 Dựa vào hai định nghĩa trên ta có thể nói thể lục ngôn  không phải là thể thơ Đừơng luật chính thống, vậy nó có thể là cổ phong hay một biến thể đặc biệt của thơ Đường luật. Sang Việt Nam nó không còn giữ nguyên chính gốc .

Có hai loại là cổ  điển và hiện đại.

A.  LỤC NGÔN THỂ CỔ ĐIỂN :

 Lục ngôn bát cú thể (cổ điển) : là bài thơ có 8 câu mỗi câu 6 chữ ( nhưng  không phải tuyệt đối đúng 6 chữ), một BIẾN THỂ  củaThất ngôn Bát cú Đường Luật, có thể xem như một thể loại thơ hoàn toàn Việt Nam, xuất hiện trong Thi ca VN từ thế kỷ thứ 15, qua các bài thơ của Nguyễn Trãi và sau đó là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cùng nhiều thi nhân khác nữa.

Thí dụ :

THỦ VỸ NGÂM

Góc thành Nam, lều một gian

No nước uống, thiếu cơm ăn

Con đòi trốn dễ ai quyến

Bầy ngựa gầy thiếu kẻ chăn

Ao bởi hẹp hòi, khôn thả cá

Nhà quen xuế xóa, ngại nuôi vằn

Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải

Góc thành Nam, lều một gian.

Nguyễn Trãi

1-Nhận xét về đặc điểm bài thơ này như sau :

-Về bố cụ: Bài thơ gồm 8 câu giống như TNBCDL, nhưng số chữ trong câu được phép linh động : Khi thì 7 chữ, khi thì 6 chữ . Trong bài này có 3 câu 7 chữ và 5 câu 6 chữ. Nói là lục ngôn nhưng số câu không cố định 6 chữ ( khác với lục ngôn thể 6 chữ đời nhà Đường, Trung Quốc).

-Về đối: các câu 3-4 và 5-6 vẫn tuân thủ nghiêm ngặt luật ĐỐI NGẪU của TNBCDL . Đôi khi có tiểu đối ở câu lục  đầu .

-Về vần : Vần gieo độc vận ở cuối câu 1,2,4,6,8 giống hệt như TNBCDL.

-Về niêm : Có niêm nhưng không chặt chẽ .

-Về luật : Luật Nhị Tứ Lục đảo thanh trong TNBCDL cũng được áp dụng một cách tương đối, không theo đúng trật tự Bằng -trắc- bằng hoặc Trấc-bằng -trắc ở các chữ thứ 2,4,6 như trong TNBCDL, hơn nữa lại xen câu 7 chữ nên không áp dụng nghiêm nhặt luật nầy .

-Câu 1 và 8 giống nhau nên gọi là thủ vỹ ngâm ( nhưng không bắt buộc).

Lục ngôn thể có nhiều biến thể mang tính tự do, phóng khoáng hơn, thích hợp với tâm hồn bay bổng của người VN hơn.

2-Khuyết điểm  của Lục ngôn thể (cổ điển) là :

-Vì xuất hiện từ thế kỷ thứ 15, mà phương tiện thông tin còn rất hạn chế, nên thể thơ này không được phổ biến rộng rãi nên ít người biết.

-Ngôn từ thời ấy đến nay đã trở thành quá cổ xưa, thậm chí đã mất hẳn trong tiếng Việt hiện đại .

-Thời nay, Lục ngôn thể (cổ điển) trở nên khá xa lạ,  bí hiểm, khó gây được sự cuốn hút, hấp dẫn.

-Không có Mỹ từ pháp, hậu quả là bài thơ thiếu hẳn  những nét đan thanh, nhịp nhàng hay dồn dập .

Những lý do trên dẫn đến sự xuất hiện của Lục ngôn thể hiện đại.

Tham khảo bài thơ lục ngôn của Nguyễn Bỉnh Khiêm ( cổ điển):

               VÔ ĐỀ

Rất nhân sinh bẩy tám mươi,

Làm chi lảo đảo nhọc lòng người.

Bạch Vân am vắng chim kêu muộn,

Kim Tuyết dòng thanh cá mát tươi.

Ưu ái một niềm hằng nhớ chúa,

Công danh hai chữ đã nhường người.

Giầu lẫn khó, yên đòi phận,

Rất nhân sinh bẩy tám mươi.

 

Thanh nhàn dưỡng được tính tự nhiên,

Non nước cùng ta đã có duyên.

Dắng dỏi bên tai cầm suối,

Dập dìu trước mặt tán sen.

Xuân về, hoa nở mùi hương nức,

Khách đến, chim mừng dáng mặt quen.

Chốn ấy thanh nhàn được thú,

Lọ là Bồng đảo mới tiên.

Nguyễn Bỉnh Khiêm

 Nhận xét: Bài thơ gồm 2 bài lục ngôn xếp liên tiếp. Bài đầu: thủ vỹ ngâm. Các cặp 3-4 và 5-6 đều 7 chử, tạo thành những cặp đối ngẫu ( giống TN BCDL) .Trong bài thứ hai, cặp 3-4 có  6 chữ: đối ngẫu , cặp 5-6 có 7 chữ: đối ngẫu.

B. LỤC NGÔN THỂ HIỆN ĐẠI :

Cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, Lục ngôn thể hiện đại  ra đời , với những đặc điểm như sau :

1-Thơ  Lục ngôn thể  hiện đại mang tinh thần tự do, phóng khoáng :

-Tuân thủ chặt chẽ vần và đối của TNBCDL mà thôi, còn Bố cục, Niêm và Luật được hoàn toàn linh động trong phạm vi TÁM câu. Cụ thể là:

-Về bố cục : Trong bài thơ  lục ngôn thi ít nhất phải có 1 câu 6 chữ, nhiều nhất là 7 câu 6 chữ . những câu còn lại 7 chữ .

-Về Luật : Tôn trọng luật "Nhị Tứ Lục đảo thanh" một cách tương đối mà thôi . Không bắt buộc phải là T-B-T hoặc B-T-B như TNBCĐL .

-Về Niêm, Niêm được càng tốt, không niêm cũng chẳng sao  .

2-Không dùng những hình thức ngôn từ quá cổ xưa nữa.

3-Sử dụng nhiều  thuật ngữ Mỹ từ pháp, đặc trưng của thơ Lục Bát như:

 -Ngắt mạch 2/2/2 (Đoạn cú), Tiểu đối 3/3, Tiểu đồng dạng 3/3, Điệp ngữ Tiền hậu song trùng, Điệp ngữ Lưỡng đầu xà, v.v... Đây cũng chính là đặc điểm phân biệt Lục ngôn thể hiện đại với Lục ngôn thể cổ điển vậy.

Ví dụ 1:

 BÊN SÔNG

Trời trong xanh, nước trong xanh

Một chiếc thuyền câu lướt thật nhanh

Ngư phủ thả mồi chống sào đợi

Sương giăng mờ mắt khói xây thành

Tiếng hò xa vắng hồn lây lất,

Giọng hát mênh mang sóng bập bềnh

Bến cũ, mưa bay, thuyền nhỏ

Chập chùng mây nước phận lênh đênh.

 Nhận xét:

Câu 1: tiểu đồng dạng 3/3.

Cặp 5&6:  đối ngẫu

Câu 7: đoạn cú 2/2/2

Ví dụ 2: (mỗi câu đều 6 chữ):

THAO THỨC

Nhà cũ rêu phong góc tường

Nghe lòng man mác sầu vương

Ra đi lỗi hẹn đò nhỏ

Bỏ lại tang thương má hường

Năm tháng ngược xuôi đất hứa

Đến giờ vẫn nhớ quê hương

Mong sao gặp người xưa cũ

Thao thức năm canh đoạn trường !

NC

I. LỤC NGÔN TỨ TUYỆT

Lục ngôn tứ tuyệt là bài thơ có 4 câu  mỗi câu 6 chữ.

 CÁCH GIEO VẦN THỂ LỤC NGÔN TỨ TUYỆT:

1.Vần tréo

Ghi chú : B : phải là bằng

T : phải là trắc

b : nên là bằng, nhưng không bắt buộc

t : nên là trắc, nhưng không bắt buộc

x : bằng hoặc trắc đều được

a.Nếu bắt đầu là vần bằng  (thì trấc gieo với trắc):

Bảng luật:

x x x T x B

x x x B x T (vần với câu 4)

x x x T x B

x x x B x T (vần với câu 2)

Ví dụ:

Mùa hè đã đến thật gần

Tiếng ve gọi đàn inh ỏi

Nhìn những cánh phượng bâng khuâng

Muốn tỏ lòng nhưng ngại nói.

 

b.Nếu bắt đầu là vần trắc: (  vần bằng gieo với bằng)

Bảng luật:

x x x B x T

x x x T x B (vần với câu 4)

x x x B x T

x x x T x B (vần với câu 2)

Ví dụ1: (vần bằng gieo với bằng)

Quê hương là chùm khế ngọt

Cho con trèo hái mỗi ngày

Quê hương là đường đi học

Con về rợp bướm vàng bay.        

Đỗ Trung Quân

Ví dụ 2:

Điền viên lạc (kỳ 4)

Thê thê phương thảo xuân lục

Lạc lạc trường tùng hạ hàn.

Ngưu dương tự quy lậu hạng,

Đồng trĩ bất thức y quan.

Vương Duy

Tạm dịch:

Cỏ xuân thơm màu xanh biếc

Tiết hè lạnh bóng thông dài

Trâu dê thuộc đường về xóm

Trẻ con dốt chuyện cân đai

( Bản dịch của Giản Chi)

Cách gieo vần khác:

Nếu 2 vần chéo bắt đầu là trắc:

Bảng luật:

x x x B x T (vần với câu 3)

x x x T x B (vần với câu 4)

x x x B x T (vần với cầu 1)

x x x T x B (vần với câu 2)

Bằng gieo với bằng, trắc gieo với trắc:

Ví dụ 1:

Đã qua mấy mùa chinh chiến

Mình xa từ độ thu nào

Ngậi ngùng anh lên tiếng

Bao giờ mới hết khổ đau?

Ví dụ 2:

Quê hương là gì hở mẹ

Mà cô giáo dạy phải yêu

Quê hương là gì hở mẹ

Ai đi xa cũng nhớ nhiều

Đỗ Trung Quân

Nếu 2 vần chéo bắt đầu là vần bằng:

Bảng luật:

x x x T x B (vần với câu 3)

x x x B x T (vần với câu 4)

x x x T x B (vần với câu 1)

x x x B x T (vần với câu 2)

Ví dụ (bằng gieo với bằng, trắc gieo với trắc):

Rừng sâu núi thẳm chập chùng

Chân đi mà lòng nhung nhớ

Sông dài sương khói mênh mông

Hắt hiu  trong chiều bỡ ngỡ.

2.Vần ôm

bắt đầu vần trắc:

Bảng Luật :

x t x B x T (vần câu 4)

x b x T x B (vần câu 3)

x b x T x B (vần câu 2)

x t x B x T  (vần câu 1)

VD:

Nếu bước chân ngà có mỏi

Xin em tựa sát lòng anh

Ta đi vào tận rừng xanh

Vớt cánh vông vàng bên suối

Đinh Hùng

Bắt đầu bằng vần bằng:

Bảng luật:

x b x T x B  (vần câu 4)

x t x B x T (vần câu 3)

x t x B x T (vần câu 2)

x b x T x B (vần câu 1)

Ví dụ:

Gió thu về bạt lối quen

Xào xạc đường xưa lá đổ

Hạt sương treo mình trên cỏ

Giấu gì mà nhớ lại quên?

3.Ba vần

Nếu bắt đầu là vần bằng :

Bảng luật:

x x x T x B (vần)

x x x T x B (vần)

x x x B x T

x x x T x B (vần )

Ví dụ:

Tạ ơn ngày trước còn nhau

không thèm tạ ơn ngày sau

ngày sau em đi đâu mất

cho ta buồn lớn sông sâu.

Nếu bắt đầu là vần trắc :

Bảng luật:

x x x B x T (vần)

x x x B x T (vần)

x x x T x B

x x x B x T (vần)

VD:

Tình đầu gửi cho anh đó

Chờ hồi âm mà chẳng

Thôi đành gỡ bỏ tình xưa

Chia tay anh cho đỡ khổ.

Ghi chú:

Người ta có thể làm một bài thơ lục ngôn trường thiên bằng cách nối nhiều đoạn  lục ngôn tứ tuyệt liên tiếp cho tới hết bài.

Ví dụ:

Tình sầu

Xuân hồng có chàng tới hỏi

Em thơ, chị đẹp em đâu ?

Chị tôi tóc xoã ngang đầu

Đi bắt bướm vàng ngoài nội

 

Hạ đỏ vẫn chàng tới hỏi

Em thơ, chị đẹp em đâu ?

Chị tôi hoa trắng cài đầu

Đi giặt tơ vàng bên suối

 

Thu biếc cũng chàng tới hỏi

Em thơ, chị đẹp em đâu ?

Chị tôi khăn trắng ngang đầu

Đi hát tình sầu trong núi

 

Đông xám lại chàng tới hỏi

Em thơ, chị đẹp em đâu ?

Chị tôi hoa phủ đầy đầu

Đã ngủ trong lòng mộ tối.

Huyền Kiêu (1938)

 

Tổng hợp,  biên soạn : Nguyễn Cang )

May  16, 2021

No comments: