Sài Gòn muộn màng của em
cũng không còn
Cô
bạn (trẻ) tặng tôi quyển sách của Erich Maria Remarque, bản dịch trước 75 mà em
kiếm được ở tiệm sách cũ. Remarque là nhà văn người Đức mà có thời tôi “ngốn”
hầu như không sót cuốn nào. Ông viết như thì thầm kể chuyện, chẳng lý luận,
triết lý gì cao siêu cả, rất buồn, và rất người. Thời Hitler, Remarque phải
sống lưu vong, tác phẩm bị cấm và bị đốt. Bây giờ, cầm sách của ông trên tay,
tôi lại nhớ đến thời sau 75, thời sách “đồi trụy phản động” bị cấm và bị đốt ở
Sài Gòn.
Vũ
Thế Thành ( trích “Sài Gòn, một góc ký ức
và bây giờ”)
Sách bị tịch thu, chất đống lên xe ba gác chở đi thì tôi chứng kiến, còn
có đem đốt hay không thì tôi không thấy. Báo Sài Gòn giải phóng số
ra ngày 15.7.75 đưa tin:
Nhà
máy sản xuất giấy Kissme hoạt động 24 trên 24 giờ đã sản xuất 50 tấn giấy vệ
sinh và thấm nước trong tháng 6-75. Nguyên liệu làm ra giấy gồm 60% giấy vụn
lượm lặt trong thành phố và 40% là gòn và lồ ô (cây nứa giống như tre trúc).
Tôi cũng phải “cúng dường” vài chục cuốn sách (cũng còn giấu được một
mớ), trong đó có hai quyển của Remarque: Chiến hữu và Một thời để yêu, một thời để chết. Có phải thừa tiền
đâu mà mua sách làm kiểng. Toàn là tiền “bán cháo phổi” ngoài giờ, cân nhắc lắm
mới dám mua một quyển, còn không thì thuê sách đọc. Đêm chia tay, cạn nguyên xị
rượu đế. Sách đồi trụy phản động, nọc độc văn hóa đế quốc Mỹ mà như tình
nhơn, quẳng xuống, rồi lại cầm lên mân mê, thì thầm, Mai tao sẽ chất đống ngoài cửa để người ta mang tụi mày đi hóa
thân thành tro thành mẹ gì đó. Duyên đến đây là hết, nhưng nợ còn. Tao sẽ nhớ
tụi mày. Nợ thằng nào nhiều, tao nhớ thằng đó nhiều…
Hơn bốn mươi năm nay đâu có đọc lại Remarque, vậy mà dạo này thỉnh
thoảng tôi vẫn nhớ, dù tên người này xọ tên người kia, dù nơi này biến thành
nơi nọ…, nhưng đại khái tình tiết chưa quên sạch. Vẫn nhớ. Nhớ và ngẫm.
Sách khoa học kỹ thuật được phép giữ lại, nhưng cũng có cách ra đi của
nó. Một trường hợp tôi biết, ảm đạm hơn là tôi chia tay “đồi trụy phản động”.
Một giáo sư tu nghiệp ở Mỹ về một ngành kỹ thuật. Ông được xem là chuyên
gia hàng đầu trong lãnh vực này ở miền Nam lúc đó, khi về nước đem theo một số
sách chuyên môn, coi như gia sản nghề nghiệp. Vài năm sau 75, ông âm thầm bán
sách trang trải cuộc sống. Thằng bạn tôi, một kỹ sư trẻ, gom hết tiền dành dụm,
rụt rè tìm đến nhà vị giáo sư mua quyển sách ao ước và cũng nhân thể ra mắt,
trò chuyện với thần tượng… Giáo sư đóng cửa phòng, không tiếp, chỉ cho hiền nội
ra, đưa sách và báo giá. Tên hậu bối trả tiền, cầm sách thờ thẫn ra về. Giao
dịch diễn ra lặng lẽ đến nặng lòng, cứ như thời Đông Châu liệt quốc. Đời cơm áo
sinh tồn, sao mặn chát thế này!
Với dân kỹ thuật thì sách technology và handbook của Mỹ sánh ngang hàng…
thê tử. Có những ngày tháng tôi đã cày cục copy bằng tay, vừa viết, vừa dịch
nhẩm trong đầu một quyển handbook mượn được, nên hiểu được loại sách đó trân
quý với dân trong nghề đến cỡ nào. Vật bất ly thân mà phải chia tay, thì còn tê
tái nào hơn. Đã đành, bán cái mình sở hữu để sinh tồn đâu có gì phải thẹn,
nhưng bán sách, bán cái gia sản nghề nghiệp, thì chẳng khác gì bán cả ước mơ,
hoài bão… Ông giáo sư biết thẹn. Tên hậu bối biết thẹn, biết thẫn thờ, biết
chia sẻ cái thẹn với tiền bối… Trí thức là người biết thẹn. Tôi gọi cả hai là
trí thức.
Nhưng không phải “trí thức” nào cũng biết thẹn. Đâu cần phải “diện bích”
cả chục năm như ai đó mới ngộ ra một chủ nghĩa sai hay đúng, hiện thực hay mụ
mị. Mẹ tôi, một người đàn bà mù chữ (nghĩa đen), thấy người ta đấu tố nhau
trong cải cách ruộng đất, con tố cha, vợ tố chồng… bà hãi, hãi cho đến chết vẫn
còn hãi… Với bà, nghèo chịu được, khổ chịu được, đói chịu được, nhưng đảo lộn
luân thường đạo lý như thế thì không… Liệu cứu cánh có biện minh cho phương
tiện được chăng? Mà cứu cánh gì? Là ấm no hay quyền lực? Ngay cả về mặt kinh
tế, trong thời chiến tranh lạnh người ta cũng đã thấy cái “ưu việt” của làm chủ
tập thể và hưởng theo nhu cầu rồi.
Hoài bão hay lựa chọn của con người, nhiều khi khởi đầu bằng cảm xúc hơn
là lý trí. Lý trí đến sau đó để hợp lý hoá hậu quả của cảm xúc. Nhưng lý trí
cũng giúp con người phản tỉnh để nhận ra mình đã làm đúng hay sai. Sai lầm là
thuộc tính của con người. Trí thức là người biết sai, biết thẹn để sửa sai.
Chiến
tranh, đau thương, mất mát, độc lập, đói nghèo, số phận của một dân tộc đâu
phải là chuyện lãng mạn, hào khí nông nỗi một thời
Nhưng nhiều người tuyên bố, nếu được làm lại từ đầu, họ vẫn lựa chọn như
cũ. Thật đẹp và lãng mạn! Thế ra, phản tỉnh chỉ bộc phát khi hậu quả của cảm
xúc bị thiệt thòi thôi sao? Chọn cái xấu, đập cho chết cái ít xấu hơn là đúng,
là đẹp?
Nhưng chiến tranh, đau thương, mất mát, độc lập (thật sự), đói nghèo…,
số phận của cả một dân tộc đâu phải là chuyện lãng mạn. Cuộc chiến kết thúc đã
hơn bốn mươi năm, nhưng lịch sử chỉ đang bắt đầu viết lại. Những phóng viên trẻ
thời chiến W. Burchett, Stanley Karnow, Neil Sheehan, David Halberstam… và vòng
nguyệt quế Pulitzer chạy theo thời cuộc đã tạo ra góc quét gần 360 độ của cái
gọi là quan điểm “chính thống” về chiến tranh Việt Nam, không thể đảo ngược.
Một khi những cây đa cây đề đã xem đó là chân lý lịch sử, đụng vào quan điểm
chính thống, họ sẽ nghiền nát.
Thế hệ trẻ sau này, với nhiều tài liệu được giải mật hơn, với phương
pháp sử học chặt chẽ hơn, đã dám lật ngược “chính thống”. Sự thật đang hé dần,
từ lật ngược đến lật tẩy chẳng còn bao xa, Mark Moyar với Triumph Forsaken chẳng hạn. Nghe nói có một bạn
trẻ gốc Việt ở nước ngoài đang làm luận án về truyền thông trong chiến tranh
Việt Nam. Lịch sử sớm muộn sẽ tung cú đấm vào sự trí trá, xảo quyệt của ngôn
ngữ và hình ảnh được chọn lọc của truyền thông có ý đồ trong thời chiến.
Sách đấy, tài liệu mới đấy. Đọc đi, hơn là cứ rù rì, tự an ủi mình và an
ủi nhau với cái gọi là oral history cũ
kỹ, nôm na là hóng chuyện không kiểm chứng, rồi cứ thế truyền miệng. Dù tránh
né cách này hay cách khác, thì mọi mỹ từ, mọi lý luận, lý lẽ và cả lý sự đều là
sự tiếp cận với ngụy biện. Nói êm ái hơn, đó là một cách xoa dịu nỗi đau “lạc
đường”. Hào quang có được từ chút tự do của một chế độ, đã buộc phải tắt ngúm ở
chế độ kế tiếp. Tiếc nuối làm gì! Ông Nguyễn Đổng Chi chỉ viết một bài phê phán
Phan Khôi không đúng mà ray rứt, ân hận cho đến chết. Biết thẹn vẫn là yếu tính
của trí thức.
Một bậc đàn anh đồng môn của tôi, trước đây phụ trách vài mục âm nhạc,
văn hóa cho đài phát thanh, mà cũng là tay sừng sỏ trong giới xuất bản. Sau
1975, khốn đốn cực kỳ, nhưng cương quyết đoạn tuyệt hẳn với nghề viết lách, làm
chân lon ton, chạy vặt cho một nhà xuất bản. Vài năm trước, gặp giám đốc mới có
mắt nhìn người, cất nhắc cho làm biên tập sách. Ông huynh trưởng của tôi mắc
bệnh “muội đèn” của Cao Bá Quát, thấy đoạn văn hay nhưng phạm húy, tiếc, không
nỡ cắt. Ông anh không cắt, thì đời cắt ông anh. Ông lại tiếp tục làm chân lon
ton! Thân già bốn mươi ký lô, tính luôn giày dép và quần áo, đã bền bỉ chọn một
thái độ sống như thế. Người ta có thể không cho viết, nhưng không thể bắt mình
viết theo ý người ta. Ngòi bút có máu, báo chí sách vở còn lưu giữ cả đấy,
không chơi bài ba lá với lịch sử được đâu.
Cô bạn tặng tôi quyển sách của E. M. Remarque là dân… “gia công”, một từ
lóng để chỉ con cái của những người tập kết ra Bắc hồi năm 54. Bọn trẻ sinh ra
ở Bắc và trở về Nam sau 75. Tôi hỏi đùa, Thế em là dân Sài Gòn hay người
Hà Nội? – Là dân Sài Gòn chứ! Hà Nội chỉ là nơi cha mẹ “gia công” ra em thôi…
Em lớn lên ở Sài Gòn, học tiểu học ở Sài Gòn, bạn bè Sài Gòn…
Tội nghiệp! Sài Gòn khi đấy đã là thành phố buồn hiu, dè dặt và nhẫn
nhục, một thành phố trầm cảm với dăm ba người mất trí nghêu ngao hát bên hè
phố, hay những người một thời cầm bút cầm phấn, bây giờ đạp xích lô, vá xe đầu
đường, bơm mực bút bi…
Đầu thập niên tám mươi, sách cũ loại tự điển hay kỹ thuật được bày bán
công khai, nhưng sách “đồi trụy phản động” thì phải lén lút. Hồi đó làm nghiên
cứu, tôi thường ra… chợ trời sách ở đường Đặng Thị Nhu. Chỉ một sạp duy nhất có
quyển Handbook of Chemical Engineers, giá bốn chỉ vàng. Khi
cần tra cứu là tôi đến đó giả vờ xem sách, ráng nhớ mấy con số, rời xa xa khỏi
sạp là rút sổ tay ghi lại. Đến riết, chủ sạp quen mặt biết ý, chỉ tay, Cầm lấy, đọc thoải mái! Có một cảm thông kỳ
lạ giữa người mua, kẻ bán và tên đọc sách “cọp”.
Phước đức bảy đời là những người buôn bán sách cũ. Họ chứng kiến những
khoảnh khắc chia tay não lòng của người bán, và những thèm thuồng tri thức của
người mua. Chợ sách (cũ) khác chợ đời, buồn bã, trầm mặc như số phận đời người…
Những dấu son chữ ký còn trên sách hẳn đã làm kẻ bán đoạn lòng, người mua nao
lòng. Đọc mà lúc nào cũng bồi hồi nghĩ đến chủ nhân trước của sách…
Bạn nhỏ của tôi, Sài Gòn có gì để em tự hào về gốc gác? Cha mẹ em là cán
bộ trí thức, nên nhà nhiều sách “ngụy” (để tham khảo) hơn là máy móc tiện nghi…
Em đọc lén. Khổ thân em! Những gì em đọc khác với những gì em học ở trường. Đó
là chưa kể họ hàng em nội ngoại, bên thua, bên thắng (cuộc)… Trong lớp học, em
phải viết ra những điều không phải em nghĩ. Nói và làm, đúng và sai, khẩu hiệu
và thực tế cứ lộn tùng phèo trong đầu. Những thực tế tréo ngoe làm em có đôi
chút phá rào, cảm nhận đúng sai. Em tự hỏi, nhưng ai trả lời?
Làm việc ở nước ngoài gần hai mươi năm, ngày trở về, em thấy một Sài Gòn
hào nhoáng hiện đại, nhìn đâu cũng building, cầu vượt… nhô lên từ những bãi nhà
tôn, ổ chuột. Có những người giàu nhanh quá, siêu nhanh giữa bầu không khí ô
nhiễm (đen lẫn bóng). Hàng rong bị săn đuổi giữa những hàng xe hơi lộng lẫy. Em
đứng tần ngần ở quán cà phê đường Huỳnh Tịnh Của, ngắm nghía căn nhà cũ kỹ gần
sáu bảy chục năm. Đẹp quá! Chẳng còn là bao những căn nhà xưa như thế này, cũng
không còn những con phố yên tĩnh. Mọi thứ ồn ào và tương phản đến lạ lẫm. Em
thở dài, Sài Gòn bây giờ như bức tranh lập thể siêu thực. Sài Gòn không còn là
Sài Gòn của em nữa…
Sài Gòn muộn màng của em cũng không còn, thì Sài Gòn một thời của tôi ở
đâu?
Có lần em buột miệng, May mà cha em mất rồi, chứ nếu
còn sống… Em không phải là người duy nhất nói với tôi điều đó. Vài
bạn bè tôi, cha mẹ họ thuộc hàng công thần, trong những lúc trà dư tửu hậu cũng
nói thế. Độc lập là khát khao của cả dân tộc, chứ đâu phải của riêng ai. Độc
lập bị tham vọng quyền lực đánh lận nên mới ra nông nỗi thế này. Người bạn
(già) của tôi ở Hà Nội nói: Các anh bị đau một, chúng tôi
bị đau những hai lần.
Em hỏi tôi có đọc sách triết không, về Sartre, Miller… gì gì đó. Tôi đã
gạt mấy cha nội triết gia này ra khỏi đầu tôi hơn bốn mươi năm rồi em. Tôi muốn
J. P. Sartre vô trại cải tạo để tự tìm ra con người ổng là ai. Muốn Henry
Miller nói chuyện tay đôi với má mì ở quán bia ôm. Muốn Nietzsche đứng trên con
thuyền nhỏ giữa sóng to gió lớn và hải tặc để ông ta hét toáng lên Thượng đế đã chết!… Cứ nhìn vào cuộc đời của mấy
ông triết gia thì biết, điều họ nói và cái họ làm thật khác xa. Những lý luận
của họ chỉ thích hợp ở trường học, ở tháp ngà nghiên cứu, nơi mà họ thư thả hệ
thống hóa những luận thuyết.
Triết lý thực sự ở ngay chính cuộc sống của mình, của riêng mình trong
mọi tình huống, mọi lẽ sống… Nhận thức được về nó. Không nhận thức được thì cảm
nhận nó. Điều quan trọng là phải sống với nó, chứ không phải nói để người khác
sống, còn mình thì sống kiểu khác.
Một khi con người còn biết chút chia sẻ, còn có chút lòng trắc ẩn, thì
đời đâu quá tệ, phải không? Không quá tệ, nhưng đi theo được nguyên tắc đó suốt
đời mình, không phải là điều dễ dàng. Tôi là độc giả thầm lặng của
facebook CLB cuộc chiến chống ung thư, nơi những con người tuyệt
vọng chia sẻ với nhau từng mẩu hy vọng. Trong đó có một status thế này: Cha tôi đã không qua khỏi, còn một ít thuốc giảm đau, bạn nào cần,
tôi xin tặng lại. Đọc mà nhòe cả mắt…
Quyển sách cô bạn tặng, Tình yêu bên bờ vực thẳm,
bản dịch của Huỳnh Phan Anh, chỉ lật vài trang đầu, tôi đã nhận ra một Remarque
quen thuộc: … Hãy để tôi đi, nàng thì thầm. Ravic không
nói gì, siết chặt tay nàng hơn nữa. Ravic có cảm tưởng nàng không trông thấy
chàng, và xuyên qua chàng, dường như nàng đang nhìn vào cõi xa xăm nào đó,
trong đêm tối trống vắng.
Con người trong tác phẩm của Remarque thường là những số phận bị săn
đuổi, với những ước mơ, tính toán thật giản dị và tử tế. Tử tế với những người
bạn tình cờ biết nhau một đêm, tử tế cả với chính kẻ thù của mình. Con người bị
săn đuổi, nên lúc nào cũng vội vã, họ cảm nhận được giá trị của chia sẻ, của
khoảng khắc tồn tại và yêu thương.
Một thời triết lý vụn đã qua, mọi thứ đã lụi tàn trong ngọn lửa “đồi
trụy và phản động”. Hồi trước đốt sách, nhưng liêm sỷ còn kháng cự ít nhiều.
Bây giờ liêm sỷ bị thiêu rụi bởi thực dụng, bởi đạo đức giả, bởi diêm dúa của
đồng tiển và quyền lực. Con người bị cầm tù bởi hiệu ứng Stockholm mất rồi!
Trong Một thời để yêu, một thời để chết,
tôi nhớ lõm bõm câu (đại ý): Không cần phải cứu vãn những
giấc mơ, mà phải cứu vãn niềm tin. Niềm tin còn, thì giấc mơ tự nó sẽ phục hồi.
Bốn mươi ba năm rồi đấy! Cuộc đời có khi tràn ngập những tuyệt vọng,
nhưng đúng là niềm tin cần được cứu vãn. Tôi cần niềm tin. Đất nước này
cần niềm tin. Niềm tin sự thật sẽ không bị vùi lấp. Niềm tin cái xấu sẽ bị đào
thải: Nước nâng thuyền, nước cũng có thể lật thuyền.
Vũ
Thế Thành, Đà Lạt, cuối tháng tư 2018
(trích “Sài Gòn, một góc ký ức và bây giờ”, 2020)
304Đen – Llttm - sgtc
1 comment:
quá hay
Post a Comment