Bến Cũ Chiều Nay
Trong dịp đi thăm nuôi Ba từ trại tù Hà Nam Ninh về, Ti quyết định ghé
Huế để thăm ngôi nhà cũ trước khi về lại Sài Gòn. Lần này cuối năm, Mạ phải lo
buôn bán Tết nên Ti lãnh phần đi thăm nuôi Ba.
Từ ngày tản cư vào Nam đến giờ cũng gần chín năm, Ti mới về lại Huế.
Thành phố có vẻ tấp nập trong những ngày cuối năm. Từ cửa Thượng Tứ về nhà bà
Ngoại vẫn hai hàng nhãn cao – hàng cây đa che mưa nắng cho Ti suốt mấy năm dài
đi bộ qua trường Đồng Khánh. Rẽ về đường ĐCT – con đường ngày xưa có hàng cây
Sầu Đông thật đẹp, mà cậu V. vẫn thường gọi là “Sầu Đông Thôn” – là đến nhà bà
Ngoại. Hai cây Bạch Mai trước cổng nhà đang nở hoa rực rỡ. Ông Ngoại Ti thích
chơi cây cảnh nên trong vườn có đủ thứ hoa, nhưng Ti vẫn thích nhất mùi hương
của hoa bạch mai. Cứ mỗi độ gần Tết, từng cánh Mai gầy run rẩy trước gió, rơi
lả tả trắng xóa như những bông tuyết phủ đầy mặt đất. Bây giờ ông Ngoại không
còn nữa – cây cổ thụ đã gãy- căn nhà ngày xưa tràn đầy tiếng cười đùa của mấy
bầy cháu ngoại, nay vắng vẻ đìu hiu.
Sau năm 75, Ba đi tù, Mạ ở lại Sài Gòn tìm cách buôn bán nuôi con, gia
đình các dì cũng phiêu bạt mỗi nơi, nên nay nhà chỉ còn Bà Ngoại và dì Út. Ngôi
nhà trước đây đã rộng, nay càng rộng thênh thang. Ti đi một vòng ra phía sau
nhà, cây Chùm Ruột còn đó, nhớ mỗi buổi trưa hè, con N. đạp xe từ Bao Vinh lên,
hai đứa leo lên cây Chùm Ruột, hái những trái mọng chín, chấm với ớt bột, muối,
đường vừa ăn vừa hít hà. Con N. bảo phải ngồi trên cây hái ăn liền, muốn ăn
trái nào hái trái đó mới ngon. Bên cạnh chiếc bể cạn là cây Khế nhành vẫn tiếp
tục ra trái. Những ngày mùa Đông, Bà Ngoại thường cho hái mấy trái Khế chín
vàng, bỏ vào trong khạp ngâm với nước mưa, lúc cần ăn, chỉ lấy ra một ít, rửa
sạch, chẻ từng múi, nấu canh với tôm khô, rắc ít hành ngò trên mặt, thế là có
một món canh Khế xâm thơm ngon trong những ngày lụt lội, chợ búa khó khăn. Đàn
bà Huế là vậy, ăn bữa nay chưa xong đã lo tính tới bữa mai, chung quy cũng chỉ
vì chồng con. Mỗi góc nhà là mỗi kỷ niệm, kỷ niệm đầy ắp làm cho những giọt
nước mắt cứ chực trào ra.
Bà Ngoại và dì Út thấy Ti về mừng lắm, cả mấy Ngoại cháu thức nói chuyện
đời xưa, đời nay. Ti mới chợp mắt thì đã gần sáng. Sáng sớm nay, Ti rủ dì Út
lên Nam Giao thăm mộ cậu V., cậu V. là em trai út của Mạ. Hồi cậu chưa đi lính,
Ti thân với cậu nhất, chắc tại cậu cũng có “máu văn nghệ, văn gừng” như Ti. Nhớ
lúc nghe tin cậu tử trận, cả nhà đều bàng hoàng, bà Ngoại khóc tức tưởi. Nhìn
những dòng nước mắt của bà Ngoại – những giọt nước mắt lấp đầy sông Hương, ngập
tràn núi Ngự – mới thấy thương cho những bà mẹ có con là lính trận dường nào.
Lần cuối cậu V. về thăm nhà, Ti còn nhắc cậu bữa mô về phép nhớ mang cho Ti một
ít hoa rừng nghe cậu, cậu V. cười buồn. Rồi chiến cuộc ngày càng gia tăng,
những người cậu bà con bên họ ngoại đều lần lượt nằm xuống ở khắp các chiến
trường Ba Lòng, Ven Đô, Dakto, An Lộc, Hạ Lào khi tuổi đời còn quá trẻ. Rồi
“chàng Bắc kỳ có giọng nói ấm, dùng đúng mô, tê, răng, rứa còn hơn người Huế
chính gốc” cũng ra đi trong một ngày mùa Hạ 72, năm ấy. “Đừng khóc, ráng học giỏi
để thi đậu, lần về phép sau anh sẽ tặng Ti một món quà thật đặc biệt”. Không
ngờ đó là lần cuối cùng và sẽ không bao giờ anh biết được tin Ti đã thi đậu nữa
rồi. Món quà mà Ti nhận được từ anh là chiếc thẻ bài xám lạnh cùng chiếc mũ Dù
màu đỏ thắm như màu máu của anh nhỏ xuống. “Anh lên lon giữa hai hàng nến
reo”. Ti muốn la lên, muốn hét to, muốn bóp nát cho vỡ tan đất trời,
thương quá đi thôi những người lính trẻ Việt Nam. Thôi, xin hãy ngủ yên, những
người con yêu của nước Việt. “Đất ôm anh khép lại từng ngày”.
Tự nhiên Ti lẩm bẩm: mới đó mà cũng tới mấy năm rồi dì nhỉ ? Dì Út ừ, mau thật.
Trên đường về, hai dì cháu ghé vào chùa Từ Hiếu, đường lên chùa trồng
toàn thông, xanh cả một trời. Ngày cuối năm, trời ráo và có mặt trời nên khí
hậu ấm áp hơn. Hai bên đường những cụm hoa ngũ sắc xen lẫn với mấy cánh hoa dại
đủ màu, cùng mấy cây chổi rành thơm ngát. Mùi hoa dại và mùi lá cây chổi rành
quyện lại làm thành một mùi hương thật dễ chịu, mà chỉ có ai sinh ra và lớn lên
với núi rừng của Huế mới “cảm nhận” được thôi. Trong chùa, thấp thoáng chiếc áo
màu khói hương thanh thoát giữa những cánh Mai rừng vàng thắm, Hải Đường, Hồng
tươi, Tùng Bách xanh ngát. Thỉnh thoảng tiếng chuông chùa ngân nhẹ, Ti như trút
hết được những hệ lụy, muộn phiền.
Dì Út nhắc, thôi về Ti hè, kẻo Ngoại trông. Ngang qua trường Đồng Khánh,
ngôi trường xưa nay đã đổi tên, Ti cứ tưởng như hôm qua còn đang đi học, còn
đám bạn bè cũ một thời con gái. Trong bữa Tất niên lớp Đệ Nhất C1, con N. nói
nhỏ với Ti – tau nghe nói con T. H. có “thằng bồ” Hải Quân bảnh lắm. Vậy mà con
M. đứng bên nghe được, hắn la lên, vậy hả, để tau đi rình cho. Bạn bè của Ti là
vậy đó, phá phách, ồn ào nhưng cũng nhu mì, hiền thục đúng lúc. Chia nhau từng
miếng bánh, củ khoai, giúp nhau trong những bài thi hóc búa. Nhưng thương nhau
lắm, cắn nhau đau, có những lần giận hờn vô cớ, làm mặt lạnh, chỉ vì con bạn
mình thương, hắn lại dám cả gan đi làm quen với con bạn mới. Hỡi thầy cô và bạn
bè “những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ”.
oOo
Mới 4 giờ sáng bà Ngoại đã dậy nấu cho Ti một nồi xôi đậu đỏ với muối mè
rang, để ăn và bới đi dọc đường. Bà Ngoại còn gởi cho Mạ hai giỏ đồ ăn Tết đủ
thứ nữa. Lúc nào cũng vậy, suốt cuộc đời, bà Ngoại chỉ lo cho chồng con quên cả
thân mình. Nhìn dáng gầy gầy của Ngoại đứng tiễn chân Ti nơi cửa ngỏ làm Ti òa
khóc. Dì Út đưa Ti lên ga, hai dì cháu có dịp nói chuyện thêm một quãng đường
nữa. Thôi, giã từ Huế, giã từ một thuở bình yên. Nhớ lại những ngày qua như một
giấc mơ. Giờ đây tôi phải trở về với thực tại, sống đủ bổn phận với chồng con,
như cuộc đời bà Ngoại, đời Mạ, đời của những người đàn bà Huế khép kín. Tất cả
những gì của ngày xưa, tôi phải bỏ vào ngăn kéo của ký ức và khóa kín lại.
“Trăm
năm nhiều lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ con đò khác đưa.
Cô đò đã thác năm xưa,
Cây đa bến cũ còn lưa đợi chờ”
Tôi sẽ ru con tôi bằng câu hát ru đó. Nghĩ đến con, Ti chợt thấy nhớ nó
vô cùng. Con bé chắc trông mẹ về lắm. Dù sao thì Ti cũng cảm thấy ấm lòng trong
lần ghé Huế hôm nay.
Tôn Nữ Quỳnh Diệu
304Đen – llttm -tvvn
No comments:
Post a Comment