Friday, May 14, 2021

Người Con Gái Kinh Cấm - Nguyễn Vĩnh Long

 

Người Con Gái Kinh Cấm




1.

Bến đò chợ Giữa nằm ở ngã ba sông, một bên là chợ huyện, bên kia xuôi về kinh Cấm. Không ai còn nhớ tự bao giờ đã tên gọi khó nghe, đầy bí ẩn như vậy. Chỉ biết từ sau ngày “giải phóng”, chính quyền địa phương đã đổi tên đơn vị mới là phường An Lạc. Nhưng vài năm sau, dân chúng trong huyện trở lại gọi tên cũ là phường kinh Cấm. Rồi kể cả chính quyền, cũng chẳng ai màng đến tên gọi của cái xóm nghèo xơ xác đó… Hầu hết dân trong vùng kinh Cấm sống bằng nghề đan và vá lưới gia truyền. Lưới kinh Cấm nổi tiếng cả tỉnh đẹp, bền và rẻ. Vậy mà dân chúng trong huyện không ai muốn léo lánh và cấm đoán cả con cái không được bén mãn đến gần. Người lớn kể lại rằng kinh Cấm là xóm của người cùi, thành lập từ thời Pháp thuộc. Trải qua nhiều đời, đến nay người ta cũng rất thận trọng và ái ngại phải nhắc đến. Chính quyền địa phương đã tổ chức nhiều chiến dịch cải cách, giáo dục dân chúng trong vùng về ấn tượng chia rẽ đó. Rằng kinh Cấm không còn là xóm cùi nữa, mà là bà con của chúng ta và đã có nhiều công trạng với “cách mạng” trong suốt hai cuộc chiến tranh. Những cố gắng, kêu gọi chừng như không thay đổi được gì trong ý thức sinh hoạt của dân chúng huyện. Cuộc sống cứ lặng lẽ trôi theo sự tái lập của nề nếp và thói quen. Nhưng nếu chỉ chừng ấy, đã không thành chuyện…

Cuối dãy chợ huyện là hàng bán và nhận đan, vá lưới. Phần lớn là người kinh Cấm, trong đó không ai không biết đến hàng lưới của Mây. Không phải nghề đan vá lưới của Mây khác với người chung quanh, nhưng chỉ vì Mây đẹp. Mây đẹp nổi tiếng cả vùng, cả huyện. Không những với nhan sắc rực rỡ, mặn mà Mây lại được cả nết hiền dịu, đảm đang. Mỗi ngày dập dìu trai tráng, đàn ông vãng lượn gian hàng lưới của nàng. Từ căn chòi lụp xụp, mẹ con nàng xây nhà gạch và thêm được vườn cau trầu sau nhà. Cũng không phải vì vậy mà Mây lấy được lòng người. Con gái trong huyện đã đành, đằng nầy cả những đám đàn bà và dân bán chợ cũng ganh ghét, tị hiềm nàng ra mặt. Họ chuyền tai nhau về cái đẹp của Mây, là dấu hiệu thời kỳ cuối, trước khi chứng bệnh cùi bộc phát, tàn phá. Họ chờ đợi và thầm mong cho mọi rủi ro, tai hoạ giáng xuống đời nàng không thương tiếc. Nhưng ngày qua tháng lại, Mây càng đẹp lộng lẫy và buôn bán tấp nập hơn… Vậy mà ngoài hai mươi, Mây vẫn âm thầm nhìn thời gian lướt qua bóng sắc mình trong tấm gương soi cô độc. Họ, đám đàn ông con trai, chỉ lượn quanh ngắm nghía hay buông lời trêu ghẹo xuông xuông. Chưa ai trong đám họ dừng lại, cho nàng buổi hẹn hò hay một lần chạm tay đời con gái. Mây là bông hoa rực rỡ của những buổi chợ nhưng đêm đêm, bên dòng kinh Cấm nàng lặng lẽ khóc thầm cho thân phận nghiệt ngã, cho định mệnh trớ trêu. Thượng đế quá xa xăm còn người đời thì không ai màng đến tiếng khóc của nàng nức nở. Nỗi bất hạnh, cô đơn cứ cuộn tròn, thắt chặc nỗi đau trong nhan sắc lộng lẫy của Mây. Chỉ vì nàng là con gái kinh Cấm.

“… Thương con, ông bà ngoại cẩn thận gởi mẹ cho vú nuôi từ nhỏ. Đến năm mười sáu tuổi, bà ngoại qua đời, ông ngoại mới đem mẹ về nhà. Bấy giờ mẹ là cô gái trẻ, bình thường và khoẻ mạnh. Không đầy hai năm sau, ông ngoại cũng qua đời, để lại với căn nhà và nghề đan bán lưới kinh Cấm. Vừa tươi trẻ vừa giỏi giang, nhưng không ai dám đến gần để yêu thương hay dạm hỏi chuyện trăm năm. Mười mấy năm thoăn thoắt trôi qua, mẹ vẫn ngồi đơn độc, âm thầm đan vá những chiếc lưới mặn khô bên bờ kinh Cấm. Cho đến một hôm, người đàn ông nghèo, lãng tử đến hát rong ở cuối hông chợ. Họ quen nhau và lấy nhau trong mảnh đời tương ngộ. Rồi đến em chào đời, ba mẹ cũng theo nếp ông bà giao vú nuôi em. Mẹ nói sau đó cha mất sớm, bà đành đem em về lúc mới đầy tám tuổi. Sống chung nhà nhưng mẹ và em ăn không cùng mâm, không ngủ cùng giường, đồ dùng từ nhỏ đến lớn mẹ đều sắm riêng. Mấy chục năm nay cả em và mẹ không có dấu hiệu nào của căn bệnh hiểm nghèo đó… Nhưng gần đây, mẹ đau nhức từng khớp xương và tai, mặt bắt đầu chai sượng. Em muốn anh biết và hiểu rõ điều nầy trước khi anh dừng lại hoặc bỏ đi. Em đã quen, đã sống với sự xa lánh của người đời như một cố nhân. Em sẽ không hờn oán hay trách cứ gì anh đâu..!”

Bến Trống chạy dài theo bãi sông, nối liền với biển mặn. Dọc bờ là rừng mắm, loại cây thân võ khô, rễ tua tủa lên trên mặt đất bùn non. Giọng nói nhỏ, đều của Mây như khuất chìm trong gió biển. Tôi cúi xuống hôn những giọt nước mắt nàng mằn mặn, long lanh khoảng trời xanh nhạt cuối ngày. Mọi hoang mang, do dự chợt tan biến giữa niềm yêu thương tràn ngập chung quanh. Tôi hiểu mình đang giữ tình yêu trong tay, như một định mệnh thiết tha không lựa chọn. Nhìn thật sâu vào đôi mắt Mây, tôi vẫn không tìm thấy được bóng dáng của thử thách và nghiệt ngã. Cả tôi và nàng. Bên cạnh Mây chừng như tôi dễ tin yêu hơn với cuộc đời không rộng lượng. Trong tay tôi, nàng bỏ quên những nỗi sợ hãi và sự khinh miệt của con người.

Thế hệ tôi lớn lên và trưởng thành bằng kinh nghiệm của khả năng sinh tồn và lòng nghi kỵ. Từ đó, mọi ước mơ dù bé nhỏ đến đâu cũng được che đậy, dấu kín dưới bộ mặt giả tạo của đời sống. Tôi về chợ Giữa sống chung với gia đình Hai Chài đã hơn nửa năm. Gần như bạn bè, hàng xóm không ai còn nhớ và biết tên thật của Hai Chài, ngoài đám công an địa phương và tôi… Sau sáu tháng học tập chính trị và triết học Mác Lê Nin, tôi được “công lệnh” về dạy trường trung học phổ thông huyện. Khu nội trú của giáo viên là ba lớp học được ngăn chia bằng mấy tấm vách phên tre, vừa che khỏi đầu. Ba cô một phòng, ba thầy một lớp. Mọi người sống co cụm, dòm trước ngó sau… Tôi quen với Hai Chài trong dịp tình cờ chiếc xe đạp thổ tả của tôi đứt “xênh” nằm đường. Lớn hơn tôi vài ba tuổi nhưng trông Hai Chài già dặn, phong sương hơn nhiều. Phần do nắng gió vùng biển mặn, phần khác đầu trần mình trụi hằng ngày với chiếc ghe chài, anh nuôi cả gia đình một vợ bốn con. Tô Văn Trợt, tên khai sinh của Hai Chài, là con trai lớn của gia đình đông con sinh sống bằng nghề chài lưới dọc theo vùng biển hòn. Trước đó, Trợt là lính hải quân. Sau ngày “giải phóng”, anh trở về đây tiếp tục nghề đánh lưới truyền thống của cha ông mình. Cái tên Hai Chài đẻ ra từ đó.

Sau vài lần đến trường thăm tôi, Hai Chài nì nằn cho bằng được để tôi dọn về ở trọ nhà anh. Cũng không xa trường, tôi vừa cải thiện đời sống vừa giúp anh dạy kèm mấy đứa nhỏ ở nhà. Mỗi ngày từ bốn năm giờ sáng, Hai Chài đã xuống ghe đi lưới tận đến chiều chạng vạng mới về tới ngõ. Đời sống lúc càng khó, một con cá đến năm bảy người lưới, anh đi sớm về tối nhiều hơn. Vợ anh cũng đầu tắt mặt tối, nuôi con nhóm chợ, làm mắm làm khô, không phút nghỉ tay. Đến nỗi anh phải nhờ tôi đi bỏ vá lưới rách hoặc đi lấy lưới đã mạn rồi. Tôi có dịp quen Mây và rơi vào tình nàng tha thiết…

– Vĩnh ơi, hãy nhìn em thật kỹ. Em không muốn chúng ta bị cảm xúc lừa dối, để một đời luôn sợ hãi và mọi người lánh xa.

– Ngoài tình yêu của Mây, cuộc đời đã không còn trong anh và nỗi sợ hãi đó to lớn hơn cả cái chết.

– Nhưng anh có cả cuộc đời trước mặt. Còn em, chỉ có bóng tối của ngày mai. Và cả định mệnh, định mệnh cũng không dành cho em được sự may rủi sau này! Em đã quen rồi sự chấp nhận cho mọi nỗi bất hạnh, nỗi bất hạnh biết trước…. Còn anh, tình yêu em nhỏ bé biết chừng nào, với một đời anh vùi chôn trong sự xa lánh, ghê tởm của người chung quanh..!

Mây nói thật nhanh, nghẹn ngào trong tủi nhục. Tôi như một con thú vùng vẫy trong chính chiếc bẫy lòng mình, xức trầy bao vết thương tuyệt vọng.

– Anh không cần thế giới to lớn, xa lạ đó. Anh chỉ cần em, cần tình yêu của em mà thôi. Tình yêu em là hơi thở trái tim anh, mất nó, đất trời nầy chỉ là một khoảng trống mênh mông, đầy bóng tối. Mây ơi, đừng để anh phải chết mòn trong tuyệt vọng và sống vô nghĩa giữa đám đông.

Tôi nói như lời cầu kinh, vang vọng trong gió biển. Mây hiểu. Hơn bao giờ hết, tôi biết Mây hiểu tấm lòng tôi và những gì nàng đang đối diện. Mây ơi, xin đừng lừa dối với chính mình! Vì trong mắt em, tôi đã nhìn thấy mọi yêu thương, mọi ước vọng cho đời này nghiệt ngã. Tôi đã đến và đã dừng lại. Đã nhìn thấy được trái tim nóng bỏng thiết tha, xuyên qua lớp vỏ nhan sắc tầm thường kia của nàng. Tôi đã chuẩn bị sẵn sàng cho những cay nghiệt, đớn đau có thật. Tôi nâng khuôn mặt Mây và nhìn thật sâu vào mắt nàng. Thật sâu như để cố tìm kiếm sự ghê tởm hoặc kinh hãi mà người đời đã dành cho Mây. Tuyệt nhiên không. Tôi đã nhìn thấy tôi, trong tình yêu có thật của Mây. Và Mây đã nhìn thấy chính mình có thật, trong tình yêu của tôi. Tình yêu của tôi và Mây đứng ngoài thế giới đáng sợ này. Nó không hiện hữu trong tấm gương soi và cả ánh mắt người đời! Cuộc đời chỉ là huyễn hoặc nếu không có tình yêu chúng ta, phải không em?

Thời gian ngưng đọng, nhẹ tênh. Trước mắt tôi hiện lên một mặt biển xanh thẳm màu hy vọng. Ở đó sẽ là tương lai hay chỉ là một định mệnh đợi chờ, tôi không màng biết tới. Vì ở đó có Mây, vì ở đó có tôi.

– Mây, đây sẽ là tất cả số phận cuối cùng cho tình yêu chúng ta. Đêm mai là thời điểm đã định, anh cùng gia đình Hai Chài rời bến… Em hãy treo ngọn đèn bão trước hiên nhà vào lúc nửa đêm và đợi ở cuối dòng kinh Cấm. Thấy ngọn đèn bão, anh Hai Chài sẽ ghé đón em ở cuối bờ kinh. Nếu không thấy ngọn đèn, là em khước từ cùng anh trong chuyến hành trình vô định nầy. Tất cả ở em, trái tim anh không còn thuộc về anh nữa. Nó sẽ thuộc về ngọn đèn bão đêm nay và bóng hình em ở cuối dòng kinh Cấm.

Mặt trời đã khuất dần phía sau dãy rừng mắm. Tất cả lặng im, chỉ còn lại hơi thở dồn dập, nặng nề của tôi và Mây. Gió từ biển thổi vào bắt đầu trăn trở lạnh. Khuôn mặt Mây trắng lờ mờ, huyền hoặc từng đường nét liêu trai. Không kềm chế được xúc cảm tràn ngập, tôi cúi xuống hôn nhẹ lên đôi môi nàng hé mở. Mây như lòng biển đêm bất chợt chuyển mình trước cơn giông. Môi nàng bám chặt môi tôi tê dại, không rời… Bàn tay tôi tự lúc nào, đang mơn trớn, dẫy dụa trên bờ ngực Mây vung tròn, căng cứng. Thảm lá chết, nực mùi bùn lợ như đan tấm thảm lụa bằng những sợi nhung của da thịt nồng ấm, cháy rực. Tôi như cánh diều vun vút gió bốc cao, thật cao căng đầy xúc cảm. Cưỡng chế. Dồn cứng. Vỡ tan trong muôn vàn tiếng kêu vang của tận cùng hạnh phúc và tuyệt vọng…

2. Quá nửa khuya, đêm tối đen không thấy rõ mặt người. Dọc bờ kinh Cấm, những dãy nhà lạnh câm, chìm sâu trong giấc mơ hải hùng truyền kiếp. Không có ngọn đèn bão trước hiên nhà Mây.

3. Giọng kể đều đặn của tôi chìm dần, mất hút trong căn phòng khách sạn lờ mờ sáng. Bên cạnh, đứa con gái điếm người Phi-líp-pin giương đôi mắt đen tròn nhìn tôi.

– Câu chuyện xảy ra bao lâu rồi ông?

– Vào đêm không trăng, cuối tháng Mười năm 1980.

– Ông có trở về và gặp lại cô ấy nữa không?

– Không. Tôi đã không trở về kinh Cấm hơn ba mươi năm nay.

– Vậy câu chuyện tình của ông đến đó là hết.

– Phải. Đến đó là hết.

Đứa con gái thở dài nhè nhẹ. Tôi đưa mắt nhìn con số đồng hồ màu đỏ tươi để trên mặt bàn. Đã hơn hai giờ sáng. Tôi bật ngồi dậy, nói nhỏ:

– Tôi phải đi bây giờ. Cô có thể về được rồi.

– Nhưng… em chưa làm được gì cho ông! Vã lại, ông đã trả tiền “bao” em hết cả đêm nay kia mà.

– Tôi biết. Cô không sợ tôi sẽ mang chứng bệnh cùi và lây qua cho cô sao?

– Ông nghĩ rằng em tin câu chuyện của ông là có thật..?

Đứa con gái nắm tay tôi giữ lại. Dưới ánh đèn mờ đục, khuôn mặt nó thật giống như Mây với mái tóc buông xõa nửa vai. Tôi cúi xuống nâng mặt đứa con gái người Phi, thấy cả hình ảnh xinh đẹp của Mây hơn ba mươi năm về trước… Tôi hôn vội, phớt nhanh trên đôi môi nhỏ nhắn, hé mở dễ thương của cô gái.

– Nếu ông không muốn làm tình, ông hãy nằm xuống, nhắm mắt lại và mơ về cô ấy. Em sẽ làm cho ông thỏa mãn, tận cùng khoái cảm!

– Không. Tôi không muốn gì hết… Xin chào tạm biệt và chúc cô nhiều may mắn.

– Cám ơn ông và chào tạm biệt.

Dãy phố đêm đã chìm sâu, vắng lạnh. Như bao nhiêu lần khác, tôi nói dối với đứa con gái điếm người Phi. Vài năm trước, tôi đã trở về kinh Cấm để mong tìm lại Mây. Tất cả không còn nữa. Không còn ai nhắc đến người con gái kinh Cấm. Không ai biết Mây ở đâu và sống hay chết… Nhưng phần cuối câu chuyện do vài người hàng xóm kể lại, sau ngày tôi ra đi và mẹ Mây mất. Phần cuối chuyện nầy, tôi không kể ai nghe và sẽ giữ riêng cho mình, mãi mãi.

4. … Đêm đó biển động, gió thổi về kinh Cấm lồng lộng. Người đàn bà nằm yên lặng, lắng nghe từng tiếng thổn thức của con gái mình. Bây giờ không phải một, mà hai. Mây mang thai hơn năm tháng nay, bụng đã đội cao. Chẳng bao lâu, mầm sống trong bụng Mây sẽ trở thành một kiếp người xương thịt. Sẽ là nguồn sống, tình yêu và niềm hạnh phúc vô biên của Mây, như chính của bà ngày xưa… Bà nhớ rõ như mới hôm qua, khi gặp người đàn ông đó cất tiếng hát đầu tiên ở cuối hông chợ. Họ đã thuộc về nhau, bất chấp thế giới chung quanh, bất chấp mọi rủi may cuộc đời. Họ đã tìm thấy ý nghĩa thật sự của tình yêu, của hạnh phúc đời nầy. Thời gian với họ, chỉ là sự tồn tại tạm bợ của xác thân. Với tình yêu, họ đã tìm thấy được sự vĩnh cửu. Người đàn ông đó đang đợi bà bên kia phần thế giới mênh mông, vô xác vô thân, vô hình vô tướng… Nhưng bây giờ, trước mặt bà không chỉ là đứa con gái thân yêu duy nhất của bà, mà chính là hai cuộc đời của mẹ con Mây. Bà hiểu thật rõ, Mây là tất cả đời bà. Nhưng bà cũng thấm thía hơn, khi bà mất đi, Mây sẽ hiểu được sự thật về chính thân phận của mình. Bà đã trở thành con người ích kỷ, độc ác vì tình yêu bà dành cho Mây. Nỗi đau đớn dày vò lòng bà hơn cả cái chết. Những cánh cửa địa ngục mở rộng chờ đợi, bà không chút sợ hãi. Nhưng, giữ kín sự thật đời Mây là nỗi ám ảnh nặng nề và ghê gớm nhất đang trừng phạt tâm hồn bà. Làm sao bà quên được, ngày vợ chồng bà tìm thấy đứa trẻ sơ sinh cuốn tròn trong chiếc khăn bàn, nằm khóc khan góc chợ vắng tanh. Như một thiên thần đem lại biết bao tình yêu, hạnh phúc cho suốt cuộc đời vợ chồng bà. Đứa trẻ thơ đó là Mây… Bà nghẹn ngào nuốt từng giòng nước mắt khô lặng lẽ chảy ngược vào lòng. Thời gian đã điểm, cái chết tầm tay. Bà ra dấu con gái lại gần, thật gần. Mẹ con chỉ còn cách nhau lớp vải mùng mỏng manh. Bà trút hết sức tàn, mở mắt nhìn thật sâu khuôn mặt con với niềm yêu thương trời biển:

– Mây, con hãy đem đứa con trong bụng rời khỏi nơi nầy… Con và nó không thuộc về kinh Cấm. Vì… vì, con không phải là con ruột của mẹ.

Sau ngày chôn cất mẹ, người kinh Cấm không còn thấy bóng dáng của Mây đâu nữa. Có người đồn rằng Mây lên sinh sống ở vùng cao nguyên và sinh được đứa con gái cũng xinh đẹp như mẹ. Lại có tin đồn khác, dân đánh cá địa phương vớt được xác cô gái có thai, trôi dạt tận vùng biển hòn. Nhưng dù thế nào, mọi người trong huyện đều xót xa, thương tiếc cho người con gái đẹp vùng kinh Cấm.

Đến nay hư thực ra sao, không ai biết rõ và cũng không ai còn nhắc đến nữa. Có điều lạ là, vào những đêm không trăng tháng Mười, mọi người ở dọc bờ kinh Cấm đều treo ngọn đèn bão trước hiên nhà.

 

Nguyễn Vĩnh Long

304Đen – Llttm -tvvn

 

 

No comments: