MỘT QUÃNG ĐỜI ĐÃ QUA
Sau khi đưa tờ giấy hẹn gặp Counselor cho người thư
ký tại Văn phòng, tôi chọn một chỗ ngồi cuối dãy hành lang chờ đợi tên mình
được gọi. Mấy hàng ghế đầu là một tốp sinh viên trẻ đang líu lo trò chuyện về
việc chọn môn học cho mùa Fall này. Tôi nghĩ đến những môn mà tôi đã ghi
danh để theo học không giống ai cả như lớp Máy lạnh xe hơi (Air Conditioning)
lớp Chụp hình căn bản ( Photo basic) lớp Pháp Văn căn bản ( French 180). lớp
ESL 1…Sở dỉ tôi chọn những môn học này đều không phải bỏ nhiều thì giờ để làm
bài hoặc học bài, vì tôi phải còn đi làm để kiếm tiền nuôi gia đình nữa. Về môn
tiếng Pháp thì tôi ghi cho có lớp, chứ trước kia tôi đã học chương trình Pháp
và đã đậu bằng Trung học Pháp (Brevet) rồi. Dù cho học hết các lớp của môn này
đối với tôi cũng không khó khăn gì. Còn môn Anh Văn thì tôi cũng đã từng đi dạy
ở các Trung Tâm ở Sàigòn hơn mười mấy năm sau khi đi học tập cải tạo về. Tôi
đang lo không biết ăn nói làm sao với Counselor đây khi cô ta hỏi “Major” của
tôi trong việc chọn lựa môn học cho mùa Fall này. Tôi ghi danh học không phải
để tiến thân hoặc lấy cấp bằng mà mục đích duy nhất là lấy tiền trợ cấp
(Financial Aid).
Đang suy nghĩ miên man thì bà thư ký gọi tên, và
chỉ tôi vào cái phòng trước bàn giấy của bà ta. Tôi gỏ cửa bước vào, hơi mát
của phòng máy lạnh làm tôi cảm thấy thoải mái dễ chịu. Counselor của tôi, cho
đến lúc này, tôi mới biết là người Việt, vì trong giấy hẹn gặp Counselor, tôi
chỉ biết rằng hôm nay, giờ này, tôi phải có mặt tại trường để gặp Ms.Vanessa.
Tôi chưa kịp chào cô ta thì cô ta đã làm cho tôi
thật ngỡ ngàng khi đứng lên nói :
“ Chào thầy ! Thầy còn nhớ em không ?”
Tôi cố hết sức để nhớ lại, nhưng thật sự tôi không
còn nhớ nỗi nữa, chi thấy quen quen…Sau những năm tháng trong các trại cải tạo,
sau những ngày cơ cực, vật lộn với cuộc sống đã làm cho trí nhớ của tôi cùn đi,
không còn được như xưa nữa. Có thể cô ta là một học sinh của tôi trước đây, mà
học sinh trước hay sau 1975. Trước 75 trong thời gian dạy tại trường Võ Bị Quốc
Gia Việt Nam tại Đàlạt tôi cũng từng dạy nhiều trường tư như Trí Đức, Việt Anh,
Văn Học, Quang Trung, còn sau khi đi học tập về, ngoài những trường công lập ở
Sàigòn, tôi còn dạy cho các trung tâm Anh Văn của Hội Trí Thức Yêu Nước, của
Trung Tâm Nghiên Cứu Dịch Thuật.
Học trò có thể nhớ thầy, nhưng thầy thì không thể
nhớ hết học trò cuả mình trong suốt mấy chục năm đứng trên bục giảng với phấn
trắng bảng đen.
Để đánh tan sư ngạc nhiên và bối rối của tôi, cô ta
nói tiếp :
“Em là Vân Huyền học trò thầy ở lớp 12 trường Văn
Học ở Đàlạt.”
Từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác,
tôi nghĩ rằng có thể nào cô học trò trước năm 75 đã một lần được đẩy vào phòng
tôi ở khách sạn sang trọng “Grand Hotel” Nha Trang ngày nào, nay lại là
Counselor của tôi ? Huyền đã khác xưa nhiều lắm, từ phong cách cho đến thể hình
và cách ăn mặc, nên tôi không nhận ra, duy chỉ có đôi mắt đen, to và ươn ướt
như hồi còn đi học.
“Chắc thầy ngạc nhiên lắm khi gặp lại em ở đây
Chuyện còn dài em sẽ kể cho thầy nghe sau.”
Huyền nói tiếp :
“Khi bà thư ký đưa giấy hẹn của thầy, em thấy tên
thầy, em nghĩ không biết có phải là thầy hay không, cái tên Vĩnh Đương làm thế
nào em quên được, cho nên em đã đi ra để nhận diện mà thầy không hay biết. Đúng
là thầy ! Thầy già đi nhiều, không còn phong độ và đẹp trai như ngày xưa nữa.”
Tôi mỉm cười : “Già rồi ! mấy chục năm rồi còn gì
!”
Huyền nói : “Thôi, bây giờ thầy và em ra ngoài này
nói chuyện.”
Huyền dẫn tôi ra khỏi phòng, đến ngay bàn bà thư
ký, giới thiệu với bà ta, tôi là thầy cũ của Huyền ở Việt Nam. Bà ta bắt tay
chào hỏi tôi một cách thân mật, rồi Huyền và bà ta trao đổi với nhau một vài
câu gì đó mà tôi không nghe rõ. Huyền đưa tôi ra một tiệm McDonald’s phía bên
kia đường. Vừa đi Huyền vừa hỏi về đời sống của tôi hiên tại :
“Thầy qua đây đã lâu chưa ? Hiện giờ thầy làm gì ?
Em biết thầy đi học chỉ để lấy tiền ‘Financial Aid’ mà thôi. Ai qua đây, mới
đầu cũng vậy hết. Thầy dạy Anh Văn mà lại ghi học ESL 1”
Tôi tình thiệt nói với Huyền là tôi đang làm
Assembler cho một hảng điện tử, cái nghề tay chân, không cần bằng cấp và tay
nghề, mà phần đông những người mới qua làm để kiếm tiền trong những ngày đầu
định cư tại Mỹ, trong khi chờ kiếm được một công việc khá hơn. Lương tiền không
đủ để trả tiền thuê apartment nên tôi phải ghi danh đi học vào những giờ nghỉ
hay buổi tối để được tiền Financial Aid.
Vào đến tiệm, Huyền chọn một cái bàn trong góc, mời
tôi ngồi rồi đi ngay đến quầy hàng…
Những hoài niệm cũ ngày xưa phút chốc
trở về…tràn ngập trong trí nhớ của tôi. Ngày đó, thời gian đó là những tháng
năm nhàn nhã và đẹp nhất của tôi ở Đàlạt. Ngoài hai giờ dạy môn Luật và Kinh tế
cho SVSQ trường VBQGVN mỗi ngày, thời gian còn lại chỉ đi uống cà phê, uống
rượu, lang thang khu Hoà Bình. Đêm đến lại đánh bài, xoa mạc chược…có khi thức
trắng hai đêm liền bỏ cả ứng trực tại trường. Để bớt rong chơi và kiếm thêm thu
nhập một số Sĩ Quan Giáo Sư đã xin phép để được đi dạy thêm ở các trường tư
thục. Huyền lúc đó là học sinh của tôi ở lớp 12 trường Văn Học, một trường tư
nổi tiếng ở Đàlạt. Tôi còn nhớ rất rõ Huyền ngồi ở bàn cuối lớp. Huyền có đôi
mắt đen, to và ươn ướt, lúc nào cũng như muốn khóc, ít nói và trầm buồn… Huyền
không đẹp lắm nhưng nhờ có mái tóc dài nên có nét quyến rủ liêu trai.
Hằng ngày tôi di dạy bằng chiếc xe jeep cũ mà tôi
đã mua từ Nha Trang, nhưng đến năm 72 khi Hiệp Định Paris được ký kết, quân Mỹ
rút khỏi Việt Nam, vật giá bắt đầu gia tăng, nhất là nhiên liệu. Giá xăng lên
vùn vụt, tôi không thể dùng xe đó để làm phương tiện di chuyển nữa. Khi một tổ
hợp lâm sản có ý định thuê lại, tôi bằng lòng ngay. Hàng tháng họ trả tiền cho
tôi sòng phẳng, ngoài ra họ thường rủ tôi đi ăn nhậu hoặc đi chơi xa trong
những ngày cuối tuần hay những ngày nghỉ lễ.
Một buổi sáng Thứ Bảy, từ trường Võ Bị ra, tôi gặp
Sơn, tổ trưởng tổ lâm sản, rủ tôi ra Nha Trang tắm biển, chiều Chủ Nhật về. Tôi
nhận lời ngay, vì muốn thay đổi không khí và không muốn hai ngày nghỉ lại ngồi
xoa mạc chược nữa.
Chiều hôm đó Sơn đến đón tôi tại khách sạn Thủy
Tiên 2, cư xá giáo sư độc thân của trường Võ Bị
Chúng tôi đến Nha Trang sau 4 giờ lái xe. Sơn đã
đặt sẳn phòng cho tôi ở khách sạn Grand Hotel nằm trên đường Trần Quí Cáp. Tối
hôm đó Sơn đã đẩy Huyền vào phòng tôi. Vừa nhận ra tôi, Huyền biến sắc, tôi
hiểu ngay sự bối rối và tình huống khó xử của Huyền, lanh trí tôi trấn an Huyền
trước :
“Em cũng quen anh Sơn à ? Em ra đây lúc nào vậy ?”
Huyền như vớ được phao, lí nhí trả lời :
“Em ra đây với mấy người bạn của anh Sơn vào buổi
sáng.” Tôi mời Huyền ngồi và bắt đầu gợi chuyện hỏi Huyền để đánh tan cái không
khí ngột ngạt, ngượng ngùng giữa thầy và trò trong phòng khách sạn vào ban đêm.
Suốt đêm hôm đó Huyền đã thành thật kể cho tôi nghe
hết những gì xảy ra cho Huyền trong những năm qua. Huyền cho tôi biết cha của
Huyền cũng là một Sĩ Quan, xuất thân từ trường Bộ Binh Thủ Đức và đã hy sinh
trong một cuộc giao tranh ác liệt khi Huyền mới 10 tuổi. Từ đó Huyền được bà
Nội đem về nuôi dưởng, để cho mẹ rảnh tay đi buôn bán kiếm sống qua ngày. Bốn
năm sau, bà nội mất và mẹ của Huyền cũng tái giá với một thương gia người Hoa
giàu có, Huyền lại về sống với mẹ. Người dượng ghẻ là một tay thu mua gạo ở các
tỉnh miền Tây, ông ta xin cho mẹ Huyền một môn bài bán gạo ở chợ Bình Tây trong
Chợ Lớn. Ông ta thường đi đây, đi đó, ít khi về nhà.
Huyền kể : “Năm em16 tuổi, một hôm mẹ phải đi nhận
gạo ở tỉnh, ông ta bất ngờ trở về nhà và đêm hôm đó ông ta đã dùng vũ lực để
cưởng bức em…Ấn tượng đó trong đời em không bao giờ có thể quên được. Em đã nói
hết cho mẹ em nghe, mẹ em sợ tai tiếng nên không làm lớn chuyện, cắn răng chịu
đựng, âm thầm đau khổ. Đến bây giờ em mới thấm thía khi nghe những lời người ta
thường ru con ngủ :
Trời mưa bong bóng phập phồng
Mẹ đi lấy chồng con ở với ai
Con đói thì con ăn khoai
Đừng ở với dượng điếc tai láng giềng…
Sau đó mẹ em gửi em lên Đàlạt ở với người dì, không
chồng con, bán rau qua ở chợ để tiếp tục đi học lớp 10. Hàng tháng mẹ gửi tiền
ăn học cho em. Nhưng một năm sau đó, trong một cuộc gây lộn kịch liệt với ông
dượng quí hóa kia, và cũng vì bệnh cao áp huyết, thêm buồn phiền về chuyện của
em, mẹ em đã bị tai bến mạch máu nảo rồi mất sau hai ngày hôn mê ở bệnh viện.
Mẹ em mất không để lại gì, từ đó dì em chỉ lo đủ
cho em cơm ngày hai bữa, tiền học thì tháng có tháng không, nhiều lúc em phải
tự xoay xở lấy. Lúc đó em đang theo học lớp 11, em tự nhủ là phải lấy cho bằng
được bằng Tú Tài để đi tìm việc nuôi thân. Em tỏ ra bất cần đời, buông xuôi mọi
thứ. Thỉnh thoảng em đi chơi xa với nhóm anh Sơn mà thôi…”
Tôi cũng kể cho Huyền nghe về cuộc đời cơ cực, trôi
nổi và tự lập của tôi từ nhỏ để an ủi và thông cảm với Huyền. Tôi hứa với Huyền
không bao giờ nói với ai về chuyện tôi gặp Huyền tại nơi nầy. Tôi khuyên Huyền
cố học để thi cho đậu, nếu gặp khó khăn trong vấn đề học hành hay tài chánh thì
cho tôi biết, tôi sẽ giúp Huyền trong khả năng của tôi.
Sáng hôm sau Chủ Nhật, vừa gặp tôi Sơn hỏi ngay :
“Sao, giáo sư !” Sơn cũng gọi tôi là giáo sư như SVSQ thường gọi. Tôi biết ngay
là Sơn muốn hỏi tôi về Huyền, nhưng tôi không trả lời trực tiếp, mà nói một
cách lấp lửng, hiểu sao thì hiểu.
“O.K, đói bụng quá rồi, đi kiếm gì ăn đi !” Trong
thâm tâm tôi, tôi không muốn ai nhắc đến cô học trò của tôi nữa.
Tuần lễ kế tiếp, vào lớp dạy, tôi không thấy Huyền
đi học. Tôi muốn hỏi hai nữ sinh ngồi cạnh Huyền nhưng ái ngại. Sau khi viết đề
bài lên bảng cho học sinh làm, tôi mở sổ điểm danh và sổ điểm để xem Huyền
không đi học giờ của tôi hay tất cả các môn khác nữa. Huyền đã nghỉ học 2 ngày
rồi. Chiều hôm đó, trong lúc lang thang trên khu phố Hòa Bình, tôi thấy Huyền
từ dưới chợ đi lên. Gặp tôi quá bất ngờ Huyền không thể tránh được, miển cưởng
gật đầu chào. Tôi nhìn thẳng mặt Huyền và hỏi ngay : “Tại sao em nghỉ học ? chỉ
còn 2 tháng nữa thôi em sẽ phải thi rồi, không thể bỏ ngang xương như vậy được.
Trong mọi hoàn cảnh chứng tỏ khả năng. Hãy quên đi mọi chuyện, để nghĩ đến
tương lai. Lời khuyên cuối cùng của tôi đó.” Huyền không dám nhìn thẳng mặt
tôi, cúi đầu nói :
“Mấy hôm nay dì của em bệnh, em phải ở nhà để giúp
cho dì, ngày mai em sẽ đi học lại. Cám ơn thầy đã khuyên bảo em.” rồi xin phép
đi.
Tôi biết Huyền nói dối vì chiều hôm qua tôi và một
người bạn ghé sạp của dì Huyền mua một bắp sú để về xào trứng cho buổi ăn tối.
Nhưng thôi, tôi biết Huyền đang bị khủng hoảng tinh thần, và mặc cảm vì người
biết rõ chuyện thầm kín của Huyền chính là tôi.
Hôm sau Huyền đi học lại, vào lớp Huyền cũng như
tôi không còn được tự nhiên như trước. Tôi tránh nhìn Huyền và Huyền cũng vậy.
Hai tuần sau kỳ thi Tú Tài, Huyền đã đến tìm tôi
tại cư xá Thủy Tiên 2, báo cho tôi biết Huyền thi đậu và mời tôi đi ăn cơm tối.
Thực sự tôi đã biết trước khi thầy Hiệu Trưởng lấy danh sách học sinh của
trường thi đậu đem về, Huyền là một trong 3 học sinh của trường đậu hạng Bình
thứ. Trường Văn Học có tỷ lệ đậu khá cao trong niên học này. Thầy Hiệu Trưởng
có vẻ hài lòng, tỏ ra vui vẻ với giáo viên hơn các ngày thường.
Huyền và tôi đi bộ xuống Chic Shangai, một tiệm ăn
khá thanh lịch, ngay dưới dốc cư xá, cạnh khu phố Hòa Bình. Trong bữa ăn, Huyền
cho tôi biết ý định muốn về Sàgòn tìm việc làm, và nếu có phương tiện, thì sẽ
học thêm Anh ngữ. Huyền còn nói nhiều về “Thủy Tiên 2” cư xá của những Sĩ Quan
Giáo Sư Văn Hóa Vụ, đối diện Ký Túc Xá của nữ sinh viên Viện Đại Học Đàlạt. Tôi
thật không ngờ Huyền biết tên của nhiều người bạn của tôi như : Tô Thế Liệu,
Nguyễn Thanh Trang, Bùi Nhữ Trụ, Lê Việt Cường , Nguyễn Kế Nghiệp v ..v.. và cả
ông bạn già Phạm Văn Phúc của tôi nữa. (có lẻ ông bạn hiền lành này thường đã
cùng tôi đi mua Lan mỗi buổi sáng do người Thượng đem bán ở khu Hòa Bình).
Không những Huyền biết tên mà còn biết cả biệt danh (nickname) của từng người
nữa. Huyền nói : “Em biết các bạn thường gọi thầy là ‘Râu hay Nhím’ có đúng
không vậy ?” Tôi mĩm cười hỏi lại : “Sao em biết ?” Huyền không trả lời câu hỏi
của tôi mà nói tiếp : “Em có con bạn nó mết thầy lắm, nó khen thầy đẹp trai. Nó
thích nhất là khi thầy măc bộ Jaspé, bộ quân phục dạo phố mùa Đông mà vào lớp
dạy, những lúc đó trông thầy giống Robert Taylor trong phim La Valse Dans
l’Ombre (Điệu Vũ Trong Bóng Mờ). Hôm ấy trông Huyền vui vẻ và nói hơi nhiều.
Sau bữa cơm, trước khi từ giã Huyền, với những kinh
nghiệm của riêng tôi trong cuộc sống, tôi chân thành khuyên Huyền cố gắng quên
đi những buồn phiền, những gì không tốt đẹp trong một quảng đời đã qua, để vươn
lên. Tôi nói :“Không ai thương mình bắng chính mình. Trong mọi hoàn cảnh chứng
tỏ khả năng. Cuộc đời là một chuổi ngày tháng tìm kiếm hạnh phúc cho bản thân
mình, trên con đường dài ấy có mấy ai chưa từng vấp ngã. Giá trị của con người
không nằm trên sự vinh hiển thuận buồm xuôi gió, mà ở chỗ có vượt qua được
những tai ương bất hạnh hay không. Nếu em muốn thành công , em sẽ thành công.”
Huyền có vẻ bùi ngùi, trước khi về Huyền nắm chặt tay tôi. Rồi từ đó tôi không
gặp lại Huyền nữa.
Cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt, quân Bắc Việt
đã chiếm hầu hết các tỉnh miền Trung, và khi nghe Đà Nẵng thất thủ, tôi và
nhiều SVSQ đã khóc. Vận nước nổi trôi, cái ngày đau thương nhất của Miền Nam
Việt Nam đã đến (ngày 30 tháng 4 năm 1975) Tôi cùng với hàng trăm ngàn Quân,
Cán, Chính khác đã khăn gói vào trại tập trung.
Sau hơn 3 năm trong các trại cải tạo Trảng Lớn,
Đồng Bang, Kà Tum, Bùi Gia Mập, Phước Long, tôi đã được thả. Về địa phương
trình diện, chính quyền không cho tôi tạm trú mà chỉ đinh cho tôi vào một nông
trường tận mãi Cà Mâu. Hằng ngày tôi phải ngâm mình trong các mươn rạch để đốn
cây đước đem về cất nhà cho cán bộ. Tôi quyết định trốn về Sàigòn, trong thâm
tâm tôi nghĩ rằng nếu có bị bắt laị, đưa vào trại cải tạo một lần nữa vẫn còn
dễ thở hơn ở đây.
Về Sàigòn tôi không dám về nhà vì sợ liên lụy đến
gia đình bên vợ. Tôi lang thang đi xin việc làm tại một tô hợp đóng thùng gổ
của một tư nhân trong Chợ Lớn cùng với một người bạn dạy Võ Bị vừa mới ra trại
anh Lê Việt Cường (đã chết một năm sau đó). Ban đêm, có khi tôi ngủ tại nhà ga
xe lửa ở đường Phạm Ngủ Lảo (khi nhà ga chưa dời qua Bình Triệu) khi thì ngủ
dưới mái hiên của những tiệm buôn dọc theo đường Lê Lợi, khi thì về tá túc nhà
bạn Nguyễn Văn Đài (Khoa Nhân Văn) ở Phú Nhuận. Thỉnh thoảng tôi đến đưa mấy
đứa con của chị Trương Kim Chung đi chơi sở thú (chồng chị là bạn cùng dạy với
tôi tại trường VBQGVN, đã chết vì đói trong trại cải tạo). Tôi đã sống như vậy
trong hơn hai năm trời…
Cho mãi đến khi Thành Ủy ra quyết định những người
có văn bằng Đại Học được ở lại thành phố, tôi ra trình diện và được chấp thuận
cho tạm trú, sau hơn một giờ xét văn bằng, giấy tờ, hạch hỏi và đe dọa. Mấy
ngày sau tôi ghi danh vào hội “Trí Thức Yêu Nước” mà chúng thôi thường đùa khi
thêm một chữ Ngoài sau chữ Nước, vì chính giáo sư hội trưởng Lê Văn Thới cũng
đã vượt biên mà không lọt.
Tôi được bố trí theo học một lớp “Bồi Dưởng Trí
Thức” để được đi dạy lại.
Trong thời gian này tôi vừa đi học vừa đi bán rượu
lậu để sinh sống. Ngày nào cũng vậy, tôi đi học với hai thùng rượu nếp than 40
lít sau xe đạp, học xong là tranh thủ đi bỏ mối ngay. Để được ra cổng bất cứ
lúc nào tôi cũng phải “hối lộ” cho bảo vệ mỗi tuần một lít.
Chỉ còn 2 tháng nữa thì mãn khóa học, một người bạn
của tôi, vừa đựợc ra trại đến thăm và rủ tôi vượt biên bằng đường bộ. Tôi bị
bắt và giam tại Campuchia, hai tháng sau được đưa về khám Chí Hòa. Tôi đã nghĩ
tình trạng xấu nhất sẽ đến với tôi nên yên chí với số phận hẩm hiu của mình.
Trong khi đó, ở lớp học, một người bạn thân cùng học không những điểm danh ‘có
mặt’cho tôi hàng ngày, mà còn làm bài thi cuối khóa cho tôi nữa. (Tôi thành
thật biết ơn bạn Trần Đình Phước, một Sĩ Quan Không Quân hiện cư ngụ tại San
José, vì tình bạn đã làm công việc táo bạo này. (A friend in need is a friend
indeed)
Tôi được bố trí dạy Anh Văn cho một trường Trung
Học tại Quận 1, trong khi tôi còn đang nằm trong tù. May mắn thay, sáu tháng
sau tôi được thả ra, có lẽ nhờ khai man lý lịch…
Cầm quyết định bổ nhiệm của Sở Giáo Dục, tôi đến
trình diện trường để nhận nhiệm vụ. Nhờ có 3 tháng nghỉ Hè nên tôi chỉ trể một
tháng. Tôi lấy lý do bị bệnh thương hàn phải nằm bệnh viện, để chứng minh tôi
lấy mũ ra cho ông Hiệu Trưởng thấy cái đầu vừa mới mọc tóc của tôi (thật sự tôi
đã bị cạo trọc khi ngồi tù)
Trong thời gian dạy ở trường công, lương giáo viên
không đủ sống, tôi đầu quân vào Trung Tâm Nghiên Cứu Dịch Thuật đi dạy các lớp
luyện dịch ở trường Cao Đẳng Sư Phạm. Nói về khả năng Anh ngữ, tôi không thể so
sánh được với các anh trong Khoa Anh Văn của TVBQGVN như anh Nguyễn Văn Sở,
Trương Văn Thuận và các giáo viên khác, nhưng các lớp luyên dịch của tôi học
viên rất đông.
Sở dĩ được như vậy vì học viên của tôi đậu khá
nhiều trong các kỳ thi tuyển vào Đại Học, nhờ tôi đã dùng giáo trình của Bộ
Giáo Dục Xã Hội Chủ Nghĩa. Tôi đã giúp học viên dịch thật nhiều đề tài thời sự
nóng bỏng, liên quan đến chính trị, kinh tế, các bài diễn văn, lời phát biểu
của các Tổng Bí Thư. của ‘Bác Hồ’ đúng vào trọng điểm lúc bấy giờ, với lối dịch
và dùng từ khá đặc biệt của nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa. Như muốn dịch “Đảng Cọng
Sản Việt Nam” thay vì “The Vietnamese Communist Party” thì phải dịch “The
Communist Party of Viet Nam”. Theo họ nước ta là một nước lớn, không được dùng
tên nước làm tỉnh tự (adjective). Như câu “Việt Nam là một nước nhỏ nằm bên bờ
Thái Bình Dương” thì chữ NHỎ phải dịch “đất không rộng, người không đông” chứ
không được dung chữ NHỎ.
Một hôm, trong lớp luyện dịch của tôi, khi học về
“possessive case” dùng với “reciprocal pronouns” tôi đã viết một câu : “Những
hoàn cảnh khắc nghiệt đã xô đẩy tôi vào tay người này đến tay người khác” lên
bảng cho cả lớp dịch. Khi học viên đang chăm chú dịch, nhìn xuống lớp, tôi bắt
gặp một đôi mắt nhìn tôi có vẻ trách móc, tôi nhận ra ngay chính là Huyền. Tôi
đâu có ngờ gặp lại Huyền trong lớp của tôi 10 năm sau. Câu tôi cho học viên
dịch không nhằm ám chỉ ai cả, và nếu biết có Huyền trong lớp thì tôi không bao
giờ cho dịch một câu như vậy. Giờ giải lao, Huyền đến chào tôi nói chuyện, tôi
xin lổi Huyền vô tình đã khơi lại một quảng đời đã qua. Huyền cho tôi biết đã
lấy chồng và đang làm việc cho một xí nghiệp nhà nước. Chồng của Huyền là con
của một thương gia giàu có trước kia. Gia đình chồng phần đông đều ở Mỹ. Vợ
chồng Huyền đang chờ đi theo diện bảo lảnh, trong thời gian chờ đợi cả hai vợ
chồng đi học thêm Anh Văn. Huyền đang theo học một lớp đàm thoại và một lớp
luyện dịch tại đây. Đó là lần thứ hai tôi gặp lại Huyền và mãi cho đến ngày tôi
được qua Mỹ theo diện HO gặp lại Huyền trong một bối cảnh khác. Huyền nay là
Counselor của tôi…Ngày xưa Huyền được đẩy vào phòng tôi tại khách sạn, hôm nay
tôi lại phải trình diện Huyền taị một văn phòng cố vấn của một trường Đại Học
Mỹ. Tôi nhớ đến mấy câu trong bài thơ “Nghe Em Vào Đai Học”của Giang Nam :
Ngày xưa anh dạy em học chữ
Bây giờ anh về, em lại dạy chữ cho anh
Không phải bằng than đen vẽ gạch thềm đình
Không phải phập phồng giữa vòng đai giặc…
***
Trở lại bàn với hai khay thức ăn, Huyền nói : “Em
order trứng và chả lụa cho thầy, nhưng tiệm Mỹ không có chả nên thế bằng bacon,
thầy dùng tạm vậy. Em biết thầy hay ăn món này vì hồi ở Đàlạt, em biết đêm nào
đánh bài ăn là sáng hôm sau thầy và các bạn thường ra quán chị Sáu, ở dưới bến
xe uống cà phê và ăn món này.” Tôi không hiểu sao mà Huyền biết được những
chuyện như vậy. Trong buổi ăn sáng, Huyền nhắc lại những kỷ niệm ngày xưa ở
Đàlạt, thành phố đối với Huyền có rất nhiều sầu, nhiều luyến thương, thành phố
với buổi sáng, buổi chiều mây bay sương phủ. Huyền cho biết một tháng sau khi
gặp lại tôi trong lớp luyện dịch, hai vợ chồng Huyền đã nhận được giấy đi Mỹ.
Vì gia đình chồng tương đối khá nên cả hai đã được đi học lại. Huyền đã lấy văn
bằng Master về Counseling, còn chồng là một kỹ sư điện tử, đang làm cho một
hảng computer. Vợ chồng đã có hai con, một trai một gái. Huyền nói :
“Em luôn nhớ lời khuyên và sự khích lệ của thầy để
thực hiện những gì em muốn. Sự quả cảm đã giúp em ngẩng đầu cao để đối diện khó
khăn và bất hạnh.” Huyền rút trong ví ra một danh thiếp đưa cho tôi và nói tiếp
: “Đây là địa chỉ của em, khi nào rảnh mời thầy đến nhà cho biết, thầy cho em
số phone của thầy luôn. Em sẽ tìm cho thầy một việc thích hợp với khả năng của
thầy hơn” Ăn xong Huyền đưa tôi đến bãi đậu xe của nhà trường, trước khi tôi
vào xe, Huyền còn nhắc lại lời bài hát “Tạ Ơn Đời” của Phạm Duy : “…biết bao
nhiêu lần gian dối, biết bao eo xèo nhân thế, đời vẫn ban cho ngọt bùi, thầy ạ
” Tôi phụ theo : “Em nói đúng, nhưng điều đáng khâm phục nhất của đời người là
biết vươn lên sau khi ngã” Huyền mĩm cười, nhìn tôi, cảm thông và đồng tình với
ý tưởng tôi vừa nói.
Một tuần sau Huyền gọi điện thoại hẹn tôi đến
trường để đi xin việc với Huyền. Huyền đã xin được cho tôi làm “Teacher Aid”
tại một trường Juvenile High School, trường quản chế những thanh thiếu niên
phạm pháp (từ 12 đến 18 tuổi)của Tòa Án trên đường Yale ở thành phố Santa Ana.
Tôi đến để bà Hiệu Trưởng interview, lương $10.75 một giờ (gấp 2 lần lương của
tôi lúc bấy giờ) và đầy đủ benefit. Sau hơn 30 phút khảo sát, bà Hiệu Trưởng
nhận tôi ngay, nhất là khi bà ta biết tôi trước đây đã dạy lính ( SVSQ/TVBQGVN)
Tôi cám ơn Huyền về sự quan tâm tìm việc cho tôi.
Ngay tuần sau đó tôi nhận lớp, thành thật mà nói
tôi đã dạy một trường có kỷ cương như trường VBQGVN nay phải đứng trước một lũ
học trò “đầu trộm, đuôi cướp” thì tôi không chịu nỗi, nên sau khi lảnh cái
paycheck đầu tiên cũng là lúc tôi đưa đơn xin nghỉ viêc.
Một quảng đời đã đi qua, thành công hay thất bại
đều do chính mình. Huyền cũng như tôi đều lấy câu của Dale Carnegie làm châm
ngôn cho cuộc sống “Believe that you will succeed and you will”.
Nguyễn Phước Vĩnh Đương
(Cali mùa của Trời
gửi tình cho Đất)
Từ trang DĐQGHCTC
No comments:
Post a Comment