PHẠM QUẾ DƯƠNG
Ngày
19 tháng 5 năm 2003, một chuyến đò ngang qua bến Cà Tang (ở thôn Nông Sơn, xã
Quế Trung) bị lật. Mười tám em học sinh bị chết chìm!
Người phải chịu trách nhiệm trong tai nạn thương tâm này là ông Võ Nghĩnh, và
kẻ liên đới là bào đệ của ông ta - ông Võ Quang Trang. Cả hai đều là những công
dân lão hạng. Dù không ai trong số những gia đình nạn nhân nói trên đã thưa
kiện hai nhân vật này, ông Võ Nghĩnh vẫn bị truy tố và xử phạt ba năm tù giam
vì tội “vi phạm các qui định điều khiển giao thông đường thủy.” Còn
ông Võ Quang Trang, chủ con đò, bị ba năm tù treo vì đã “giao cho người
không đủ điều kiện, điều khiển phương tiện giao thông” (Hồi Nhân,
“Phiên Toà Dành Cho Ai,” Tuổi Trẻ, 26 Dec. 2003:4).
Ở tuổi tám mươi hai, ôngVõ Nghĩnh, sau tai nạn thảm khốc này, (e) khó có thể
còn đủ thần trí để sống thêm đôi ba năm nữa - cho dù là được sống ở nhà thương,
chứ không phải … nhà tù (theo như lệnh xử phạt của tòa án “nhân dân” huyện Quế
Sơn). Và đây không phải là lần đầu tiên công luận được nghe nhắc đến tên Quế
Sơn.
Cách đây chưa lâu, trong mục Sổ Tay của tạp chí Thế Kỷ 21 – số tháng 6 năm 98,
xuất bản tại California Hoa Kỳ, với tiểu đề “Những Chị Quyến Ở Nông Thôn Việt
Nam” – cũng có ghi lại trường hợp của hai cư dân khác, ở địa phương này:
“Báo Tuổi Trẻ ở Việt Nam đã đăng câu chuyện chị Võ Thị Quyến, người phụ nữ
sống ở một ngôi làng cách huyện lỵ Quế Sơn (tỉnh Quảng Nam) ba cây số. Câu
chuyện có thể giúp ta hiểu tại sao ở những thôn làng tỉnh Thái Bình người dân
đã nổi dậy.”
“Chị
Quyến là một người nghèo nhất xã Quế Minh, theo lời giới thiệu của ông chủ tịch
xã. Căn nhà ba mẹ con chị Quyến ở chỉ là mấy tấm tranh xiêu vẹo trên những cây
cọc dựng tạm. Trong lều chỉ có một chõng tre đủ một người nằm, và mấy cái nồi
gang sứt quai. Chị Quyến có ba sào ruộng, làm không đủ ăn. Ngoài việc làm ruộng
chị chằm nón. Mỗi ngày chị chằm được một cái nón bán được 1 ngàn 900 đồng Việt
Nam, trừ 500 đồng mua lá, 300 đồng mua chỉ cước, và 300 đồng mua tre mỗi ngày
chị kiếm được 800 đồng (6 cent Mỹ), bằng giá một điếu thuốc lá 555 ở Sài Gòn”…
“Chị
Võ Thị Quyến là người thế nào mà nghèo khổ đến như vậy? Năm 1972, mới 16 tuổi,
chị đã thoát ly gia đình “nhẩy núi” theo bộ đội tỉnh Quảng Nam làm công tác vận
tải. Sau năm ‘giải phóng’ 1975, khi cha mẹ anh em đã chết, chị xin ra quân về
nhà trông nom bà nội mù loà. . .”
“Bài phóng sự viết về xã Quế Minh còn kể đến anh Nguyễn Phước Minh. Mười năm
trước đây anh Minh là người được ‘biểu dương kiện tướng lao động’ hàng ngày
trên loa truyền thanh của nông trường Đại Thủy Lợi, Phú Ninh, Tam Kỳ - khi đảng
cộng sản còn đang ‘xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa’ bằng tay chân. Thành tích của anh
là đào đắp cả chục khối đất mỗi ngày. Với sức lực đó, anh trở về xã Quế Minh
nhưng không làm gì đủ nuôi vợ con! Nhà anh cũng sơ xác như nhà chị Quyến. Vợ
anh bệnh nằm liệt giường.”
“Xã Quế Minh nổi tiếng vì trận đói năm 1993, dân làng phải đào những củ sắn
non lớn bằng chiếc đũa lên ăn. Hiện nay thanh niên trai tráng trong xã hầu hết
đã bỏ đi kiếm ăn ở phương xa, đến nỗi có đám tang không tìm được đủ số thanh
nhiên khênh quan tài.”
“Nói chị Quyến là người nghèo nhất xã Quế Minh cũng chưa chắc đúng vì,
cũng theo lời ông chủ tịch xã, mức sống trung bình của người dân ở đây là 150
ngàn đồng một năm, tức hơn 12 ngàn một tháng (chưa được một Mỹ Kim)… Làm cách
nào người ta có thể sống với 12 đô la một năm? Đó là điều không thể hiểu được
khi có những nhóm cán bộ, như ở công ty dệt Nam Định, đã tham nhũng đến vài
chục triệu Mỹ Kim… Nhưng chị Quyến không biết những chuyện xẩy ra ở công ty dệt
Nam Định vì cả xã chỉ có hai tờ báo của đảng.”
Với thành tích “thoát ly gia đình, nhẩy núi theo bộ đội”, khi mới 16 tuổi, và
“được ‘biểu dương kiện tướng lao động’ hàng ngày trên loa truyền thanh”, anh
Nguyễn Phước Minh, chị Võ Thị Quyến - hiển nhiên - là những người (vô cùng)
cách mạng.
Ông
Phạm Quế Dương … cũng vậy. Ông ta đi theo cách mạng, từ năm 1945, lúc mới 14
tuổi. Chỉ khác có điều là sau khi xuất ngũ, ông ấy về sống ở quận Hoàn Kiếm, Hà
Nội. Ở thủ đô của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam - nơi có đến hơn hai
tờ báo Đảng được lưu hành - nên chắc chắn ông Phạm Quế Dương có biết vụ cán bộ
tham nhũng mấy chục triệu Mỹ Kim ở công ty dệt Nam Định, và rất nhiều vụ tương
tự khác nữa.
Có thể vì thế nên ngày 2 tháng 9 năm 2002, ông Phạm Quế Dương - cùng một số người
đồng chí hướng - đã làm đơn xin thành lập Hội Nhân Dân Ủng Hộ Đảng và Nhà Nước
Chống Tham Nhũng, với những hoạt động đề nghị (nguyên văn) như sau:
- Lên án tệ nạn tham nhũng tác hại đến lợi ích quốc gia dân tộc.
-
Tham gia phát hiện, tố giác vụ việc tham nhũng.
-
Kiến nghị biện pháp xử lý vụ việc tham nhũng.
Có lẽ, ông Phạm Quế Dương đã tin tưởng rằng Hội Nhân Dân Việt Nam Chống Tham
Nhũng (nếu được Đảng cho phép hoạt động) sẽ ngăn chận được sự bòn rút hàng tỉ
mỹ kim mỗi năm - từ quĩ xóa đói giảm nghèo - do ngoại quốc viện trợ.
Tổ chức này cũng có thể làm cho thuế má, cũng như nhiều nguồn lợi và tài nguyên
của quốc gia (đang bị khai thác vô tội vạ) không rơi hết vào túi của những kẻ
gian tham. Và nếu việc “tố giác vụ việc tham nhũng” được toàn dân tích cực tham
gia, rồi được Đảng xử lý nghiêm minh, rất nhiều tệ nạn xã hội khác nữa sẽ bị
ngăn chận hoặc giảm thiểu.
Nhờ thế, rồi ra, sẽ có lúc Nhà Nước đủ tiền để bắc một cây cầu nhỏ - thay cho
những chuyến đò ngang - qua bến Cà Tang. Từ đó, những công dân lão hạng (gần
đất xa trời) như qúi ông Võ Nghĩnh, Võ Quang Trung … - nếu không được xã hội
tích cực trợ giúp - cũng sẽ được yên thân nằm chết tại nhà mình, thay vì ở… nhà
tù!
Cứ
thế, mai hậu, ở những nơi như xã Quế Minh, xã Quế Trung … rồi cũng sẽ có ngân
sách tạo dựng được những nhà máy hay công trường để người dân nơi đây có công
ăn việc làm đủ sống. Họ sẽ khỏi phải đi tha phương cầu thực, bỏ lại xóm làng
xác sơ hoang vắng (“đến nỗi có đám tang không tìm được đủ số thanh niên khênh
quan tài”), và bỏ lại những bến sông hiu quạnh - cùng với lũ bé thơ ngơ ngác -
cho những cụ già chèo đò run rẩy.
Tiếc là Đảng đã không chia sẻ với ông Phạm Quế Dương về những viễn ảnh như thế.
Chủ trương và chính sách của Đảng, về tương lai đất nước và dân tộc, xem ra,
hoàn toàn khác thế. Đảng quả là có (thiết tha) kêu gọi ông Võ Nghĩnh, ông Võ
Quang Trung, ông Phạm Quế Dương … chống Pháp. Đảng cũng (tha thiết) kêu gọi thế
hệ của anh Minh, chị Quyến … bỏ cửa bỏ nhà thoát ly đi chống Mỹ.
Sau đó, Đảng hô hào mọi người đi giải phóng Cambodia, rồi động viên cả nước
chống bọn giặc bá quyền phương Bắc. Nói tóm lại là Đảng ra lệnh cho toàn dân
chống tất cả mọi thứ, nhưng chống tham nhũng thì không. Nhất định không.
Sao Đảng kỳ cục vậy cà? Không lẽ Đảng không nhận ra rằng phần lớn những tệ nạn
xã hội đều phát sinh bởi tham nhũng hay sao? Chuyện rành rành vậy mà. Vấn đề,
dường như, không phải do “nhận thức” mà là “động cơ”. Dù trận chiến ai thắng ai
giữa tư bản và cộng sản đã kết thúc, Đảng vẫn “cố tình nán lại chỉ để cốt nhặt chiến
lợi phẩm” - như nhận xét của ông Hà Sĩ Phu, trong bài tiểu luận “Đôi Điều Suy
Nghĩ Của Một Công Dân,” viết vào tháng 5, năm 1993.
Cứ theo như lời của công dân Hà Sĩ Phu thì sở dĩ Đảng vẫn kiên trì đi theo Chủ
Nghĩa Xã Hội, và vẫn cứ nhất định phải được toàn quyền lãnh đạo chỉ vì Đảng
muốn được độc quyền … tham nhũng - thế thôi. Nói cách khác, Đảng đã hiện
nguyên hình là … đảng cướp.
Hội Nhân Dân Chống Tham Nhũng, với chủ trương “lên án tệ nạn, tham gia phát
hiện, tố giác vụ việc tham nhũng…” đã (“vô tình”) kêu gọi mọi người chống …
cướp. Và đó chính là lý do tại sao ông Trần Khuê, ông Phạm Quế Dương – cũng
như những thành viên khác đã (và sẽ tiếp tục) lần luợt bị nhốt tù với cùng một
tội danh: gián điệp!
Sau tai nạn thảm khốc ở bến Cà Tang, một nạn nhân may mắn thoát chết đã bị “toà
án nhân dân” của huyện Quế Sơn biến thành … thủ phạm! Tuy thế, “con dê tế thần
Võ Nghĩnh” sợ không làm giảm được sự trầm uất của những oan hồn trẻ thơ dưới
đáy sông Thu Bồn. Đã thế, nó còn khiến cho người dân Quảng Nam thấy rõ hơn sự
hèn kém, vô lương tâm, và hoàn toàn vô trách nhiệm của những giới chức có thẩm
quyền tại địa phương.
Tương tự, những bản cáo trạng mà “tòa án nhân dân” Hà Nội áp đặt cho ông
Phạm Quế Dương (cũng như cho những thành viên khác trong Hội Nhân Dân Việt Nam
Ủng Hộ Đảng Và Nhà Nước Chống Tham Nhũng) chỉ cho cả nước thấy rõ hơn cái bản
chất đạo tặc của nhà nước hiện hành.
(Viết năm 2004)
S.T.T.N Tưởng Năng Tiến
Người chuyển bài – HHM - USA
No comments:
Post a Comment