Ở Một Chốn Nào Đó
Mượn
một chút tình tiết thật, phần còn lại, bối cảnh, nhân vật của chuyện được viết
bằng tưởng tượng, để tặng đám bạn cùng lớp cùng khóa ở trường Quốc Gia Sư Phạm
Sài Gòn của những năm 69 -70
Ba mất sớm, từ ngày Hiệp tròn ba tuổi,
không biết mất bao giờ và hình dáng ông ra sao, mẹ chưa có lần nào nói, từ Cai
Lậy, mẹ tay dắt con, tay xách giỏ bàng, đựng mấy bộ quần áo cũ, bạc không bạc
đen không đen, đem Hiệp về lại cù lao Đông với ngoại, nơi mà từ đó mẹ bỏ lại
ngoại một mình, theo ba lam lũ, nổi trôi với đời làm thuê vác mướn. Xóm cù lao
Đông, nằm cách bờ bên kia phố chợ làng Trà Cao, cái cầu ván, chỗ lành chỗ nứt,
bắt ngang qua nhánh rạch nhỏ, xuôi theo vàm nối ra sông Vàm Cỏ Đông, cái ấp có
chừng hai ba mươi căn nhà vách đất mái tranh, mái lá, lụp sụp, nằm lưa thưa,
gần gần xa xa, dọc theo con đường đất, lồi lõm, lớn đủ chiếc xe bò đi qua, xen
kẻ giữa đám cây ổi hoang hiếm khi thấy trái và những bụi chuối hột, cao cao lá
vàng lá úa, chạy một đường quanh ấp, cửa trước cửa sau, chắn hờ bằng mấy tấm
liếp tranh, cái đong đưa cái lủng lẳng, chẳng cần biết mùa mưa nước lên hay
nắng khô đồng hạn. Người trong ấp, đôi khi mười họa, cần mua gì đó thì qua chợ
làng, nếu khá hơn từ làng, đón chuyến xe đò lỡ chạy đường Bến Cầu Gò Dầu ra chợ
quận ngang qua Gò Dầu Thượng.
Ngoại vốn đã
nghèo, mẹ Hiệp bỏ ngoại đi, ngoại ở lại cứ nghèo, rồi mẹ về ngoại cũng vẫn
nghèo như từ thuở đó, may mà ngoại còn có được miếng đất nhỏ, chéo góc đường bờ
rạch và cái nhà lụp sụp, mái tranh xen kẻ lá dừa, nên còn có chỗ che nắng trốn
mưa. Trong nhà hai cái bàn cây, mấy cái ghế đẩu, chân cao chân thấp, hai cái
giường tre, một cho ngoại một cho mẹ con Hiệp, năm sáu cái thúng, bốn năm cái
thùng nhựa đựng áo quần cùng mấy thứ lặt vặt, ở chái bếp có thêm cái kệ cao bằng
mấy cây trúc khô cột dọc cột ngang và mấy cái nồi đất, cái chão thiếc đen thui.
Mẹ về với ngoại không có gì khác hơn là cái nghèo giống ngoại mang theo và
thằng con, chắc đã quen khổ rồi, chưa lần khóc đòi chuyện gì dù là khóc đòi sữa
mẹ, nhưng ngoại vui và mẹ cũng vui, vì không còn ai lủi thủi một mình, nhìn đất
nhìn trời mỗi khi mưa luồng gió tạt. Trời cũng còn thương cho kiếp nghèo, những
ngày không có mẹ, thấy ngoại đơn chiếc lẻ loi, một mình lụm cụm, bó rau, cái
trứng của hai ba con gà mà bà nuôi, khệ nệ bưng ra chợ xã bán, vợ chồng anh chị
Đắng, ở căn nhà bên cạnh, cách nhà bà ngoại một khoảng mương sâu, ngập bông
súng và cá lòng tong, anh chị bắt khúc cây dừa khô lớn cở một tay ôm ngang
mương, họ cũng nghèo, nhưng có đôi cho nên đở hơn, anh Đắng làm nghề đi cày
ruộng mướn, chị thì ở nhà trồng đậu trồng khoai, chạy qua chạy lại, hỏi han phụ
giúp khi tối lửa tắt đèn, anh chị cũng có đứa con gái, con Mận, trạc tuổi Hiệp,
gọi tới gọi lui hai tiếng “bà bà”,
nhờ vậy ngoại đở buồn. Có mẹ con Hiệp về, thấy nhà trống trước trống sau tội
nghiệp, anh Đắng đi kiếm đâu đó một số trúc già và mấy liếp tre còn tốt, làm
khung, ngăn phòng, một bên cho ngoại, một bên cho hai mẹ con, có chỗ che chỗ
đậy.
Về cù lao Đông, vì
con nhỏ, mẹ không đi gieo mạ cấy mướn như đa số người trong ấp, họ không lạ gì
mẹ Hiệp, cũng mừng rỡ chào nhau, hỏi thăm hỏi lom chuyện xưa chuyện cũ nhưng
cùng chung kiếp nghèo, thương mà không ai giúp được gì hơn, cả năm qua, mẹ Hiệp
xách đục tre đan, sớm sương chiều nắng, một mình lầm lũi “tát đồng tát đìa bắt còng bắt cá”, có chút ăn để sống chứ chẳng khá
gì hơn. Hôm mẹ dắt Hiệp theo ngoại ra chợ xã bán mớ rau, tình cờ gặp bác Thạnh,
xã trưởng, vốn đã gặp mẹ ngày mới về, xin thêm tên hai mẹ con vào tờ khai gia
đình và cấp cho Hiệp cái giấy thế vì khai sinh, để lớn lên có giấy tờ mà đi học
nếu được, bác cho biết có ông bà cai tổng Triêm ngoài chợ Gò Dầu, muốn mướn một
người lo việc nhà, quét dọn và giúp chuyện đi đứng cho bà cai tổng chút đỉnh vì
bà bị đau ở xương sống cột lưng sao đó, vào ban ngày, chiều về thì có người lo
rồi, thứ bảy chủ nhật không cần, thấy tình cảnh mẹ con tội nghiệp, bác bảo mẹ
Hiệp nếu muốn bác giới thiệu cho, ông bà cai tổng Triêm rất hiền hậu và thương
người, cả quận ai cũng biết.
*
Thôi cũng đành phần số, ngoại nhắm mắt
gật đầu, mẹ Hiệp về làm người ở đợ cho ông bà cai tổng Triêm sau ngày đó. Nhà
ông bà, một căn biệt thự không mới không cũ, xa bến xe, xế ngã ba đường đầu
chợ, trên đường đi Sài Gòn, có rào sắt cao và mấy bụi hoa sứ già, rụng đầy lá.
Mấy người con lớn nghe nói ở đâu đó dưới Sài Gòn, cũng nhà cao cửa rộng, chỉ
còn cô con gái út, cô Huyên, tuổi cở tuổi mẹ Hiệp, và đứa con gái tên Quỳnh
Hương, bằng Hiệp, còn ở với ông bà, hiện coi sóc tiệm sách, giấy mực viết bút,
ngay đầu đường vào chợ, chồng cô, ba của Quỳnh Hương, là một sĩ quan Dù, chỉ
huy trưởng căn cứ biệt kích ở Ka Tum Thiện Ngôn gì đó, nhưng không may đã tử
thương một vài năm trước đây. Ngày nào cũng vậy, sáng sớm, mặt trời chưa hừng
rõ bên kia sông lớn, mới có chút ửng hồng, Hiệp còn ngái ngủ thì mẹ Hiệp xách
cái túi đựng mớ đồ lặt vặt, đi bộ qua cầu ra chợ xã, chờ ngoài đường lộ đón xe
đò sớm xuống Gò Dầu, chiều chạng vạng mới về nhà, cũng may, ông bà cai tổng và
cả chị Huyên đều tử tế, hiền từ nên mẹ Hiệp không nổi nào vất vả cho lắm, ở
nhà, nhiều khi không có mẹ, Hiệp thấy bà ngoại cứ đứng thấp nhang ngoài trời,
trước sân vái vái xá xá thì thầm gì đó, hỏi mẹ, mẹ bảo là ngoại xin trời phật
phù hộ cho gia đình được bình an may mắn. Những ngày không đi Gò Dầu, mẹ vẫn
túi đục tre đan, cái chĩa cây dài, dầm mưa đội nắng, tát cá tát đìa như thuở
nào, bữa cơm chiều cũng mấy con cá con, mấy con còng kho muối tiêu mặn, mấy
cọng rau lang rau muống, pha chút cười chút nói mẹ con bà cháu.
Mới đó mà mẹ Hiệp
đi ở đợ cho nhà ông bà cai tổng Triêm đã được gần bốn năm năm, mẹ làm việc
siêng năng, cần mẫn, thật thà và ăn nói nhỏ nhẹ nên được ông bà thương mến, năm
nào cũng vậy, ông bà và cô Huyên đều gởi cho Hiệp cái quần cái áo mới, chút
tiền lì xì và cho mẹ Hiệp thêm tiền công ăn Tết. Cũng mới đó mà đã cuối năm lớp
nhất trường làng cùng với Mận, con gái của anh chị Đắng, trong ấp cù lao Đông
đi học không nhiều, chỉ có Hiệp, Mận và ba bốn đứa trai gái nữa ở tận xóm
trong, bao nhiêu năm rồi, ngày nào cũng như ngày nấy, sáng sớm, trời hừng đông,
cả đám tụ nhau trước ngỏ nhà Mận chờ, tay cầm khoai tay cầm bắp, theo nhau qua
cầu, nói cười luôn miệng. Từ ngày Hiệp về cù lao Đông rồi cùng đi học cho đến
giờ, “con Mận thằng Hiệp” tiếng của
bà ngoại gọi, ít khi rời nhau nửa bước, chạy qua chạy lại, đánh vần học bài, chẻ
củi đốt lò, lùa gà đuổi vịt, không nhà bên này cũng nhà bên kia, khúc cây dừa
bắt ngang cái mương chia hai bên, ngày càng mòn đi thấy rõ, hình như đám cá
lòng tong cũng bỏ đi xa vì con nước không còn yên bình như thuở chỉ có một mình
bà ngoại. Kỷ niệm vui nhiều hơn buồn, của tuổi ấu thơ dìu dịu, êm đềm nối nhau
lớn dần theo những ngày tháng đó, không “ngựa
xe son phấn “không “áo lụa quần là”mà ngọt ngào với đục tre giỏ lát, nước
mặn bùn đen, khói cơm bếp lửa, rặng trâm bầu và những con đường mòn bờ đê đầy
hoa sim tím.
*
Cùng với ba bốn đứa học chung lớp nhất
ngoài chợ xã, Hiệp và Mận, thi đậu vào đệ thất trường trung học Gò Dầu, anh chị
Đắng, mẹ Hiệp và ngoại mừng mà khóc cả mấy ngày, nghe tin này, bà cai tổng
Triêm đã gởi cho mẹ Hiệp số tiền, để mua vải may quần áo đồng phục, mẹ Hiệp đem
về chia với anh chị Đắng một nửa phần cho Mận. Được một cái là hai đứa không
cần phải xuống ở đậu nhà người ta dưới Gò Dầu, một hai tháng trước, có chú năm
Vững, và cháu của bác Thạnh xã trưởng, nhà phía sau chợ, mua hai chiếc xe lam ba bánh 550 cũ của ai
đó, làm xe chở khách đi về Trà Cao – Gò Dầu, ngày ba bốn chuyến, nên không còn
phải ngóng phải trông chiếc xe đò lỡ từ Bến Cầu xuống, nhờ có hai chiếc này mà
người ở Trà Cao đi chợ quận thường hơn trước. Sáng sớm theo mẹ qua bên chợ xã,
đi chuyến chạy sớm trước của chú năm Vững xuống Gò Dầu, ba người xuống ngay ngã
ba, chờ hai đứa khuất cuối đường vào trường rồi mẹ Hiệp mới bỏ đi, nhà ông bà
cai tổng Triêm cách đó không mấy xa, chiều về Trà Cao cũng đã có xe của cháu
bác Thạnh chạy ngang qua đón.
Giờ ra chơi định
tìm Mận, thấy Quỳnh Hương loanh quanh bên cô ta, cười nói ngoài sân nên Hiệp
đứng ở góc hàng rào chờ, nhớ ngày đầu vào lớp, gặp Quỳnh Hương, Hiệp có phần
ngài ngại gì đó, chẳng biết tại sao, nên cố tránh đi nhưng khổ nổi, Quỳnh Hương
lăng xăng, tiếng một tiếng hai, Hiệp Hiệp, Hương Hương, nên cũng đành trả lời
một cách nhát gừng, với cô ta, quen cũng không hẳn là quen, Hiệp đã gặp Quỳnh
Hương ở nhà ông bà cai tổng Triêm vài ba lần trong mấy dịp Tết, được mẹ dắt
xuống, cám ơn những món quà mà ông bà đã cho, khúm núm, bẽn lẽn, lấp ló nói
nhau đôi ba tiếng rồi thôi, tuy vậy, lần nào ra về, Quỳnh Hương cũng chạy theo
bà cai tổng ra cổng, đứng nhìn theo cười, biết là có cô ta ở đó nhưng chưa lần
nào Hiệp dám quay lại, trở vào lớp, ở bàn sau nhìn lên, hai cô vẫn còn nhỏ to,
Hiệp nhăn mặt thắc mắc, cười mĩm một mình, chiều về chắc là sẽ biết thôi, từ
những ngày sau đó, cũng theo chuyện thường tình, vào học ra về, ba đứa trở
thành bạn thân nhau, vui buồn với sân trường lớp học, sáng chờ cổng trường
chiều chia tay đầu ngã ba bịn rịn bước đi bước ở.
Cuối năm đệ lục,
có người cháu gái bà con, từ đâu dưới miệt Long Xuyên về ở với ông bà cai tổng
Triêm, nên mẹ Hiệp xin thôi việc. Về lại nhà được mấy hôm, vợ chồng bác Thạnh
xã trưởng, đến nhà, gặp mẹ gặp ngoại, bàn qua nói lại cũng hơn nửa buổi, bác có
người cháu trai, trạc tuổi mẹ Hiệp, đi lính cấp bậc trung sĩ, sư đoàn 25 VNCH,
đóng ở Tây Ninh, bị thương trong trận núi Bà, giải ngủ, vợ anh mất đi chừng hai
năm nay, đang làm nhân viên ở văn phòng quận Phú Khương, Tây Ninh, muốn kết đôi
với mẹ Hiệp, nhưng mẹ từ chối, một phần tình yêu đã nguội lạnh, một phần mẹ
không muốn một lần nữa bỏ ngoại một mình, vợ chồng bác Thanh không nở nài ép,
vậy mà lần nào gặp ngoài chợ, bác cứ nhắc chuyện này hoài, mẹ nhỏ nhẹ cười trừ
thôi. Không may sau đó, ngoại bệnh nặng trở lại, nằm không bao lâu thì mất ở
bệnh viện, cùng với anh chị Đắng, bà con trong xóm cù lao và chiếc xe lam của
chú tư Vững, mẹ đem ngoai chôn tại cái gò mả chung, trên đám đất cao, bên bờ
nhánh sông, cuối còn đường mòn từ đầu xóm nhà, mẹ Hiệp khóc nhiều sưng cả mắt
gần mấy ngày. Rồi cũng nguôi ngoai, mẹ con ra vào buồn vời vợi, sau ngày cúng
49 ngày với số vốn dành dụm từ mấy năm nay, cộng thêm chút tiền ông bà cai tổng
cho khi nghĩ làm, nhờ anh Đắng một tay dựng cây dựng kệ, mẹ Hiệp mở cái sạp bán
hành tiêu tỏi ớt, kẹo bánh nhỏ, hàng lấy từ chợ Gò Dầu, cuối góc chợ xã, không
xa chỗ bến xe lam bao nhiêu, chị Đắng, mẹ Mận cũng có chỗ để bán thêm bó rau bó
cải, con cá con cua, từ ngày đó mẹ không còn theo xe lam xuống chợ quận như mấy
năm trước.
*
Ở cù lao Đông, những gì của ngày xưa
còn bé đã lẳng lặng bỏ đi, tuổi biết buồn chợt vội vã về, không chờ không đợi,
với Hiệp, cũng bên nhau qua cầu, cũng ngồi bên nhau trên chuyến xe lam sớm
nhưng không còn đánh đôi đánh đọ, tay nắm tay lôi chiều mưa trưa nắng nữa,
những đêm ngồi học bài muộn, lời thơ tình của ai đó Mận nhớ hơn là nhớ công
thức toán năm đệ tứ, ngọn đèn dầu khuya bên này cứ nhớ ngọn đèn dầu khuya bên
kia nhà Hiệp, Mận chợt biết ra mình đã thương thật rồi hai tiếng “thằng Hiệp con Mận”, thương mà để
vậy, không dám nói ra và chưa biết khi
nào mới dám nói. Dưới Gò Dầu, Quỳnh Hương cũng thấy lòng mình ray rứt, nhớ nhớ
mong mong, vẫn ba tháng như những mùa hè cũ nhưng mùa hè năm nay sao cứ dài lê
thê, chùm hoa đỏ bầm cuối mùa trên hàng phượng già đầu cổng trường đã héo rủ từ
lâu, thèm nghe tiếng chuông trường reo nhưng chờ hoài vẫn chưa có, đường phố
chợ quận đông người xe cộ nhưng hồn mang mang một nổi buồn trống vắng, Quỳnh
Hương cũng như Mận, thì ra mình đã thương và nhớ một người. Đầu năm đệ nhị,
cũng như đám học trò ở xã, Hiệp, Mận xuống ở trọ dưới Gò Dầu, xe đò xe lam từ
Bến Cầu xuống hay ở Trà Cao đi, không còn chuyến sớm nữa, ban đêm quân du kích
Việt cộng giờ thường ra đắp mô gài mìn, phục kích đám lính VNCH đi mở đường,
tiếng súng tiếng đạn nghe ngày càng gần làng gần ấp nhiều hơn, đôi khi đã có
người chết phía bên kia bỏ lại trên đường lộ. Chợ quận không có bao nhiêu con
đường, phố xá không xa, loanh quanh, đi xuống đi lên chưa đủ mỏi thì đã gặp lại
nhau, nhưng có họ, ba người, Gò Dầu dễ thương Gò Dầu đáng nhớ, mùa thi ngấp
nghé đâu đó nhưng cũng có những chiều hẹn nhau quán nhỏ, khi đầu chợ lúc cuối
đường góc phố, cũng có những sáng tụm nhau đi, chờ chuông trường, nhặt hoa
rụng, thả lá bay, rộn ràng mình ta với bốn mùa thu đông xuân hạ.
Cứ nhìn ra đường,
trời giữa chiều, mưa bất chợt về ngang từ bên kia cầu, lất phất bay mờ đục màu
bụi phấn, trong một góc quán nhỏ, cả ba không nói, lặng thinh, buồn níu kéo
buồn man mác, dù có muốn nói thì cũng chẳng biết nói gì thêm vì biết nói làm
sao đây. Xong tú tài một, nhà vẫn nghèo, ba đồng ba cộc, cũng kiếp đời của
người trong ấp, chưa biết chừng nào mới khá hơn, Mận vào trường Quốc Gia Sư
Phạm, mong mau ra trường làm cô giáo, sớm có chút tiền lương cho nhà đở khổ,
Quỳnh Hương, không biết vì sao, cũng vội bỏ xuống Sài Gòn, theo người chị, con
bà dì, chị của mẹ, vào đệ nhất trường Lê Văn Duyệt, chuyện của mình thì Quỳnh
Hương và Mận đã nói nhau nghe hết rồi hôm cuối mùa thi, bên lề phố vắng ngó qua
cổng trường Gia Long dưới Sài Gòn, cả hai cùng thương Hiệp, không ai hỏi vì
sao, không giận hờn trách móc, không biết ai buồn hơn ai, thôi thì cứ trôi theo
định mạng và vẫn giữ cho riêng mình hiểu. Từ lúc quen nhau tới giờ, đôi lúc
chạnh lòng, có chút bâng khuâng nào đó về bất chợt nhưng rồi như gió thoảng qua
mất hút, Hiệp chưa lần nào và chưa dám nghĩ tới chuyện thương yêu dù trong lòng
cũng đã có thoáng nhớ nhung mơ tưởng, hình ảnh và cuộc đời lam lủ, và kiếp
người ở đợ, cô độc của mẹ làm Hiệp chú tâm vào việc học hành hơn là chuyện
khác. Rồi thì cũng phải chia tay, người xe ngoài đường vắng từ lâu, lưa thưa
vài vạt nắng hé lên muộn màng, trời vẫn còn hâm hấp nóng, cười tiễn nhau ba ngã
đường, có người cười muốn khóc, bóng Mận và Quỳnh Hương khuất xa khỏi dãy phố
loang lỡ tường vôi ở cuối hai lối rẻ, Hiệp đứng bên lề nhìn theo, bổng chợt
thấy có chút gì mất mác.
Gặp lại trong
trường Quốc Gia Sư Phạm Sài Gòn hôm khai giảng, vui quên cả buồn, sau lần chia
tay ở Gò Dầu, nhà trọ mãi tận dưới Phú Lâm, đôi ba khi mới cùng đi phố vài lần
nhưng không ai hỏi Hiệp và nhắc chuyện nói nhau nghe hôm cuối mùa thi tú tài
một năm nào, Mận đưa Quỳnh Hương tới chỗ này chỗ nọ, trên lầu dưới sân, làm
quen cô này anh kia, hỏi ra mới biết, không may, Quỳnh Hương rớt tú tài hai,
cùng với người bạn thân, không chịu học lại mà thi vào năm thứ nhất, Mận bắt
đầu năm cuối ra trường. Hiệp thì vào Kỹ Thuật Phú Thọ học Điện, đi về Trà Cao
nhiều hơn là ở dưới này, cùng ở Sài Gòn đó, vướng vấp chút trớ trêu tình cảm “thương một người”nên năm khi mười họa ba
người mới gặp nhau, ở một quán nước bên lề đường, hỏi nhau ba bốn chuyện vớ
vẩn, quê nhà xứ người thế thôi, rồi chia tay mỗi người mỗi ngả, chẳng màng hẹn
lần khác, không ai buồn thắc mắc vì sao, cứ như vậy bỏ mặc cho ngày tháng đi
về, lạnh lùng, chết lặng trong cô đơn giữa những cơn mưa cái nắng buồn vui bất
chợt của trời Sài Gòn.
*
Vài hôm trước ngày thi cuối năm thứ
hai, nghe tin người quen nhắn xuống, mẹ anh bị bệnh gì đó mấy ngày qua nhưng không
sao, Hiệp nóng lòng nên bỏ học, ra ngã tư Bảy Hiền đón chuyến xe đò sớm đầu
ngày về Gò Dầu, đường vắng tanh, trời mù mờ sương sáng, không may, xe cán phải
cái mô có gài mìn chặn ngang đường, ở khúc vừa qua Suối Cụt, do đám quân du
lích Việt cộng đấp trong đêm nổ tung, Hiệp, anh lơ xe và ba bốn người khác chết, mười mấy người bị
thương nặng nhẹ, nằm la liệt bên lề đường, dưới bờ ruộng, mấy xe cứu thương của lính sư đoàn 25 từ Củ
Chi lên phụ đem người về bệnh xá quận, cũng cái xe lam 550 đưa ngoại đi chôn
của chú tư Vững, một lần nữa chở xác Hiệp về cù lao Đông.
Mận tốt nghiệp, về
dạy tại một trường tiểu học trên quận lỵ Chơn Thành, Bình Long, Quỳnh Hương ở
lại học năm cuối, cũng thêm một lần chia tay, hai người bên nhau suốt buổi
chiều ngày chọn nhiệm sở, lòng vòng loanh quanh đường xưa phố cũ, hẹn nhớ thư
cho nhau biết tin, chúc nhau nhiều may hơn rũi. Ba bốn tuần sau ngày Hiệp mất,
mẹ Quỳnh Hương xuống Sài Gòn đặt mua sách học, tập vở cho biết tin, vài hôm
trước đây, một chị bạn dạy ở trường tiểu học quận, thường tới nhà chơi, cũng có
nhiều lần gặp mẹ Hiệp lúc còn làm ở đó, trên đường từ trường về nghỉ trưa, ghé
tạt ngang qua tiệm báo tin, Hiệp đã chết vì chuyến xe đò từ Sài gòn về Gò Dầu
bị trúng mìn, Quỳnh Hương rụng rời, kềm lòng không được, thẩn thờ như người mất
hồn, khóc rấm rứt luôn tới mấy ngày. Sáng thứ bảy nghỉ học, Quỳnh Hương ra bưu
điện chính thật sớm, gởi điện tín khẩn cho Mận qua địa chỉ của trường cô ta dạy
báo tin, hẹn về Sài Gòn để hai người đi Gò Dầu cùng ngày thăm mộ, xong việc, trở
ra đường, trời vừa có chút nắng lúng túng xuyên màn sương tan mờ mờ, Quỳnh
Hương băng vội qua trước sân nhà thờ Đức Bà, chưa có người đi lễ sớm và cũng
chưa có tiếng chuông, đứng chết lặng trước tượng Chúa, lâm râm, rưng rưng khóc.
Gọi là khẩn cho vui
chứ tình hình chiến trận bây giờ, ở đâu cũng vậy chuyện không tới tay người
nhận sớm là chuyện quen rồi, biết vậy nhưng Quỳnh Hương cứ trông trông ngóng
ngóng, buổi sáng sau ngày gởi điện tín mấy hôm, vào tới sân trường, đám bạn
cùng lớp tụm năm tụm ba ngay đầu hành lang chờ, nhỏ to có vẻ là lạ, nhìn quanh
không riêng gì họ mà hình như cả trường, mặt mày ai nấy buồn xo, vì tin Mận
chết do một chị khóa trước, cháu bà con của cô Hoàng giám thị, đang dạy cùng
trường, nhờ một người quen, sĩ quan bên chi khu, theo nhóm lính đi phép về Sài
Gòn nhắn lại, vì khi còn ở trường, Mận được xem là học trò cưng của cô, nghe
tin Quỳnh Hương đứng chết trân, buột miệng “trời
ơi”, mắt nhạt nhòa nước mắt. Nhận được điện tín của Quỳnh Hương, từ văn
phòng trường trở lại, Mận khóc òa lên ngay cửa lớp, khi đọc chưa hết lời nhắn,
đám học trò lớp nhì đứng lên im phăng phắc, hớt hơ hớt hãi gọi to “cô ơi cô ơi”, Mận quỵ xuống sàn nhà, bất
động, trên tay bức điện tín mở toang, lật lên lật xuống theo chiều gió sáng từ
hướng rừng lùa về mang chút bụi đỏ ngang qua sân trường. Ngồi chờ sáng, để mai
sớm đón chuyến xe đò Bửu Hiệp về Sài Gòn, đêm cứ dài và dài vô tận, sau ngày
Lộc Ninh mất, tiếng đạn đại pháo bên này bên kia nghe rồi cũng quen tai, quá
giữa khuya, quân cộng sản pháo kích như mưa, rớt nổ nhiều chỗ trong quận lỵ,
Mận chết vì căn nhà không may bị trúng đạn, nằm cong người bên cạnh cái túi
xách nhỏ, đựng vài ba bộ áo quần, mấy thứ lặt vặt thường xài và cái điện tín
xếp vội hờ chưa đóng kín, nhờ thiếu tá Tường, quận trưởng dàn xếp sao đó với
tỉnh, xác Mận được chở theo trên chiếc phi cơ vận tải đưa thương binh VNCH về
tổng y viện Cộng Hòa chiều ngày hôm sau.
*
Quỳnh Hương ngồi đó, môt mình, sụt sùi,
cúi người cố choàng dài tay ra ôm nhưng không trọn hai tấm mộ bia đá cùng màu,
khắc cùng một kiểu chữ, chừng như muốn kéo nó sát lại bên nhau, trời giữa trưa
hừng hực nắng, thản nhiên trải thảm trên mặt đất khô cằn của cái gò mả nghèo
nàn cuối xóm cù lao Đông, trong hình, cả hai Hiệp Mận cùng cười, Quỳnh Hương
nhìn đăm đăm cười mà cười trong ràng rụa nước mắt, khóc không thành tiếng “nói gì bây giờ đây anh Hiệp ơi, Mận ơi”,
lưa thưa đâu đó, lẻ loi dăm ba cụm mấy xám chùng xuống, trời chợt mù mờ hơi
mưa, nán ngồi thêm chút nữa, cũng không còn gì để nói cho nhau, cũng không làm
sao kể cho hết tâm tư thầm kín, giữ trọn cho riêng mình, riêng người, tất cả
chỉ còn lại đó, hai nấm mộ một u tình, Quỳnh Hương đứng lên, sửa lại mấy bó hoa
tươi, mang từ dưới Gò Dầu lên trước ba nấm mộ, ngoài sông chiếc xuồng ba lá ọp
ẹp thả câu, lặng lờ xuôi theo chiều nước về ngang, người đàn bà nhích cái nón
lá rách trên đầu lên nhìn vào, không ngừng tay chèo, lắc đầu, miệng thì thầm,
một lần nữa rươm rướm mắt, đưa tay vuốt mấy tấm bia đá vừa dịu cơn nắng, buồn
thiu nói nhỏ “thôi tạm biệt, có lẻ phải
lâu lắm mình mới lại gặp nhau, không chắc là ở đây, nếu có, sẽ ở một chốn nào
đó”.
*
Lạnh lùng, cánh cổng sắt của tu viện
Dòng Mến Thánh Giá chầm chậm khép lại, trời Đà Lạt mấy hôm nay lạnh gắt dù mới
chập chững vào đông, trong sân sương mù mờ, phủ một màu vàng nhạt cùng màu con
đường lát gạch dài dọc theo hành lang, người Mẹ Bề Trên đứng đón trước cửa
chánh tòa, Quỳnh Hương lặng lẽ đi theo sau một dì phước trẻ vào tới trước mặt
bà, bỏ cái va-li xuống đất, hai người đứng chờ, Mẹ Bề Trên gật đầu cười, đưa tay
choàng ôm cô vào người nói nho nhỏ gì đó, cô khẻ gật đầu, bà chậm rãi quay lại
đi vào trước, cô và người dì phước trẻ nhẹ bước theo sau, ngoài khoảng sân rộng
cả một trời vắng tanh, sương lảng đảng
đục, cuối đường bóng ba người ẩn hiện lờ mờ rồi mất hút sau cái cửa kín lớn của
gian nhà nguyện, không bao lâu sau có giọng con gái kéo dài thật dài hai tiếng “Lạy Chúa” thoáng ra, chuông thánh lễ
sáng vừa đổ hồi đầu, có chút trễ hơn như mọi ngày.
Thuyên Huy
Bendigo
tháng sáu đầu đông 2017
No comments:
Post a Comment