HÀ NHẬT QUÂN TÁI LAI
何 日 君 再 來
(Bao
giờ anh trở lại)
« Hà
Nhật Quân Tái Lai –Bao giờ anh trở lại »
Là
tên một bài hát nổi tiếng bằng chữ Hán, mà tôi thường vô ý thức nghêu ngao hát
« nhái » mấy câu tiếng Việt, lúc còn là một cậu học trò trường làng, mười một
mười hai tuổi, cách đây mấy chục năm :
Em
lấy chồng sao em không nói,
Để anh
theo anh ghẹo em hòai
Cũng
như nhiều đứa trẻ cùng trang lứa với tôi lúc bấy giờ, chúng tôi vẫn thường đem
lời hát này ra để trêu đùa những cô gái cùng xóm với mình.Âm điệu của câu hát
này này cho đến bây giờ, tuổi đời tôi đã ra ngoài thất thập cổ lai hy rồi, vẫn
như còn, lãng đãng sống trong trí nhớ của tôi, kèm theo với một kỷ niệm đẹp
thời thơ ấu của một chú nhóc con, ôm mộng mị, mê say cái nhan sắc của một bậc
liền chị hàng xóm, lớn hơn mình năm sáu tuổi.
Tôi
còn dám cả lòng mạo muội mượn lời hát đó để “tỏ tình” một cách láo lếu. Nhưng
tôi may mắn đã không bị ăn một cái tát tai nào, mà ngược lại, trở thành người
thân quen được sang chơi hàng ngày với chị.Tôi đem những những truyện xã hội
như Nửa Chừng Xuân, Gánh Hàng Hoa, Đọan Tuyệt, Những Đồng Tiền Xiết Máu, đổi
cho chị lấy những truyện võ hiệp, trinh thám, như Bồng Lai Hiệp Khách, Giao Trì
Hiệp Nữ, Đoan Hùng, Lệ Hằng, Người Nhạn Trắng …Tình cảm giữa tôi và chị mỗi
ngày một thêm thắm thiết, thân ái hơn.Tôi tìm được nơi chị nguồn an ủi những
khi tôi cô đơn, bị bè bạn họ hàng hắt hủi bỏ rơi.
Tôi
đem những bài học ở nhà trường ra thuật lại với chị để nhờ chị chỉ bảo.
Chị
kể cho tôi nghe về gia đình chị.Về những ngày phải chạy đi tản cư ở những vùng
quê.Hết làng này qua làng khác.Cha chị bị người ta bắt mang đi mất tich.Nghe
nói ông bị người ta nghi ngờ là có quen biết với những người ở đường Quan Thánh
Hà Nội.
Mẹ
góa con côi, hai mẹ con chị phải cực khổ, vất vả lắm mới tìm được đường “rinh
tê vào tề”.
Ngày
chị bỏ làng tôi hồi cư về Hà Nội.”Tình yêu” thơ dại của tôi chưa biết khóc,
nhưng trong lòng tôi thì buồn vô hạn.
Tôi
hỏi :
-Bao
giờ chị trở lại ?
Tôi
không ngờ rẳng, đó lại chính là nghĩa của câu hỏi của chữ nho : “Hà Nhật Quân
Tái Lai 何日君再 – Bao giờ anh trở lại”, lại
là đầu đề của bài hát mà tôi đã dùng để “tỏ tình” với chị hôm nào.
Chị
im lặng.Kéo tôi vào lòng, vỗ về an ủi :
-Chị
đi vài tháng thì chị lại về.
Lần
đầu tiên tôi cảm thấy hơi ấm từ cơ thể của một người khác phái lan sang người
tôi.Tôi vừa bối rối.Vừa lúng túng.Tôi không phân biệt nổi cảm giác đó ra làm
sao.Nhưng im lặng.Một thứ cảm giác không tên làm tôi không muốn rời xa chị.Phải
chi lúc đó tôi cũng biết làm thơ và tài hoa như thi sĩ Hòang Cầm, thì có lẽ tôi
cũng có một bài thơ đấy nhỉ.
Rồi
hiệp định Genève, đất nước chia đôi.Tôi theo mẹ vào Nam.Trải qua nhiều thăng
trầm dâu biển, với biết bao vật đổi sao dời.Lời hứa hẹn vài tháng của chị đã
trở thành biền biệt. Mãi mãi. Hòang hạc nhất khứ bất phục phản. Nhưng người đi
để lại hình bóng.Tôi không có cơ hội nào gặp lại người chị láng giếng năm xưa
ấy nữa. Còn hình bóng chị thì mãi mãi vẫn là một tiên nữ hiền lành, khi ẩn khi
hiện trong cái thế giới thơ ấu mang nhiều bất hạnh của tôi.
Những
lúc nhớ về chân trời cũ, tôi chỉ âm thầm hát một mình :
“Cô
láng giềng ơi ! Không biết cô còn nhớ đến tôi …”.
Và
nếu quả như “tam sinh hữu hạnh”, tôi xin nguyện làm viên đá mốc rêu nằm bên dốc
cầu chờ chị khi tái sinh đi qua đó.
1-Sự ra đời,
và nỗi gian truân của “Hà Nhât Quân Tái Lai”
« Hà
Nhật Quân Tái Lai –Bao giờ mình trở lại », là một bản
tình ca Trung Hoa nổi tiếng, được nhiều người ưa thích và ca hát, được các vũ
trường đua nhau diễn tấu vào cuối thập niên 30 của thế kỷ trước.Ca khúc này
chẳng những được phổ biến rộng rãi khắp đại lục, mà còn được truyền bá sang các
nước đông Nam Á, được dịch ra các thứ tiếng, Nhật Bản, Tân Gia Ba, Việt Nam…Tuy
thế nổi tiếng và được quần chúng yêu thích như vậy, ca khúc này cũng phải chịu một
định mệnh nhiều đắng cay oan nghiệt, cho cả tác giả, lẫn một số ca sĩ của nó,vì
sự gian trá và những tính tóan chính trị, vô nghệ thuật.
Ca
khúc từng bị Trung Cộng xếp vào lọai nhạc dâm đãng đồi trụy, là ca khúc chiêu
hồn của đế quốc Nhật Bản phản động, là lọai “nhạc vàng” ủy mị,tức “hòang sắc
đích ca khúc”, và bị cấm hát, cấm lưu hành, bị bỏ vào “lãnh cung”.
Tác
giả của nó, cũng phải chịu hai chục năm tù tội, oan khuất.Người hát bài ca này
là ca ca sĩ khả ái Đặng Lệ Quân bị cấm túc, không cho đặt chân lên đại lục.
Nguyên
tác giả của bản tình ca này là nhạc sĩ Lưu Tuyết Am ngẫu hứng sáng tác theo
điệu tango vào năm 1936, trong một buổi đại hội liên hoan tốt nghiệp lần thứ 4
của những sinh viển trường “Thượng Hải Quốc Lập Âm Nhạc Chuyên Khoa Học Hiệu”.
Mới
đầu, ca khúc chưa có lời.
Đến
năm 1937, trước khi xẩy ra sự kiện Lưu Câu Kiều vào ngày 7 tháng 7, là ngày
quân Nhật phát động tòan diện cuộc xâm lăng Trung Quốc, công ty Nghệ Hoa Điện
Ảnh ở Thượng Hải được công ty sản xuất kem đánh răng là Tam Tinh tài trợ, dự
tính quay phim “Tam Tinh Bán Nguyệt –Nửa vành trăng khuyết ba sao giữa trời”,
do nữ tài tử Chu Tuyền chủ diễn, và đạo diến là Phương Bái Lâm. Họ Phương liền
xin nhạc sĩ Lưu Tuyết Am cho phép lấy bản tango “Hà Nhật Quân Tái Lai” đang
thịnh hành, dùng làm nhạc đệm cho phim “Tam Tinh Bán Nguyệt”.Nhưng bản nhạc
chưa có lời, đạo diễn họ Phương lại phải nhờ nhà sọan kịch của phim này là
Hòang Gia Mô (ký tên là Bối Lâm) viết lời.
Bài
ca diễn tả lời ca của một thiếu nữ hát tiễn biệt tình nhân trước ngày ra mặt
trận.Nói lên sự bi hoan ly biệt, biểu đạt một nhân sinh quan, cho cuộc đời là
ngắn ngủi, hãy kịp thời vui sống và hưởng lạc đi.
Đương
nhiên nó là thiếu tính tích cực.Nhưng nếu đem cả nội dung của phim và lời ca
phân tích, người ta chẳng tìm thấy tí ti gì là “nhạc vàng”, là “đồi trụy”, hay
“phản động” cả.Đó chỉ sự biểu hiện một thứ tình cảm tư sản thường tình.Yêu nhau
mà xa nhau thi buồn.Đời người ngắn ngủi, hãy mau vui đi.
Cổ
kim thi nhân cũng đã chẳng từng đề cấp đến hay sao. Lý Bạch, trong bài Tương Tiến
Tửu, đã từng viết:
Quân
bất kiến Hòang Hà chi thủy thiên thượng lai
Bôn
lưu đáo hải bất phục hồi.
Mới
đầu, “Hà Nhật Quan Tái Lai” chỉ thuần túy là một khúc nhạc đệm cho điện
ảnh.Hòan tòan không mang một ý đồ chính trị nào khác.
Năm
1937, người đầu tiên hát bài này là nữ tài tử chủ diễn phim “Tam Tinh Bán
Nguyệt”,Chu Tuyền.Nhờ tiết tấu êm ái dịu dàng, dễ lọt vào tai thính giả.Thêm
nữa, lời nhạc lãng mạng, ngọt ngào nên bản nhạc được lưu truyền một cách nhanh
chóng.Từ đầu thôn cuối ngõ , người ta đua nhau hát một cách đắc ý.
Đến
năm 1939, ca khúc “Hà Nhật Quân Tái Lai” lại được dùng nhạc đệm khi quay phim
“Cô Đảo Thiên Đường 孤島天堂 ”, một phim thuộc lọai kháng chiến chống Nhật, do nữ tài tử Lê Lợi Lợi
hát, để khuyến khích thanh niên lên đường tòng quân.
Đến
năm 1941, lúc này cuộc xâm lăng Trung Quốc quân Nhật đã được bốn năm.Một số
thành thị, một số địa khu đã bị chiếm đóng nằm dưới sự quản lý hành chánh của
quân đội Nhật.Để chứng tỏ ở những khu vực bị chiếm đóng này, dân chúng vẫn được
yên vui thanh bình, tâm lý chiến của Nhật đã tung ca khúc “Hà Nhật Quân Tái
Lai” do một ca sĩ khả ái người Nhật , hóa danh là Lý Hương Lan(nguyên tên Nhật
là Sơn Khẩu Thục Tử 山口淑子 ,bị Trung Hoa nghi ngờ là điệp viên)hát hàng ngày trên đài phát tháng.
Lý Hương Lan mau chóng chiếm được cảm tình và sự ưu ái của dân chúng.
Ngòai
bản Hoa văn, “Hà Nhật Quân Tái Lai” còn được Lý Hương Lan dịch ra Nhật văn để
thâu vào đĩa nhựa.Bản Nhật văn này cũng được Lý Hương Lan hát và phổ biến đến
các doanh trại của quân đội Nhật.Tất nhiên cũng được họ hoan nghênh nhiệt liệt.
Trong
thời kỳ kháng chiến, chính phủ của Tưởng Giới Thạch dời đô đến Trùng Khánh,
nhưng tại những vùng bị Nhật chiếm đóng “Hà Nhật Quân Tái Lai” được phổ biến
rất rộng rãi.Những người dân tại vùng Nhật chiếm đóng, đua nhau hát “Hà Nhật
Quân Tái Lai” để tỏ niềm khát vọng khu trừ được quân Nhật.
Thế
là “Hà Nhật Quân Tái Lai”, từ một ca khúc bình thường, biến thành một ca khúc
yêu nước, và vượt trội hẳn những ca khúc mang tính chất tuyên truyền chính trị
khác và tồn tại đến ngày nay.
Tuy
thế, trong già nửa thế kỷ tồn tại ấy, “Hà Nhật Quân Tái Lai” phải chịu một vận
mệnh đầy oan khuất, bị cấm đóan, bị trù dập, đả kích.
Cũng
trong thời kỳ kháng chiến chống Nhật, người Nhật phát hiện ra rằng “Hà Nhật
Quân Tái Lai” được xử dùng làm nhạc đệm trong một phim chống Nhật.Lập tức nhà
đương cục Nhật ra lệnh cấm, không cho hát bài này nữa.Họ lấy lý do là chữ “
quân 君” –(có nghĩa là anh, là mình) đọc thành chữ
“quân 軍”, tức “quốc quân 國軍” (có nghĩa là quân của Quốc Dân Cách Mạng, kháng chiến).
Ít
lâu sau thì cả bản Nhật văn cũng bị cơ quan kiểm tra của Nhật cấm.Họ cho là vì
âm điệu của bài hát có tinh chất lê thê ủy mị, sẽ làm cho binh sĩ Nhật mất kỷ
luật, nản lòng chiến đấu.Người Nhật còn nghi ngờ rằng, dân chúng Trung Hoa sống
trong vùng Nhật chiếm đóng, thông qua bài hát này muốn bầy tỏ sự trông chờ quốc
quân Trung Quốc đến giải phóng họ.
Đến
cuối thời kỳ kháng chiến, ở Nam Kinh, Thượng Hải, quân đội Nhật biết rằng họ
sắp thua trận.Nhưng thua thì thua, họ nẩy ra ý định thay đổi nhan đề của bài
hát, sửa chữ “Hà 何” ra
chữ “Hạ賀”, “Quân 君” trở thành “Quân軍”, và
“Hà Nhật Quân Tái Lai-何日君再來-Bao giờ anh trở lại » biến thành « Hạ Nhật Quân Tái
Lai-賀日君再來-Mừng quân Nhật trở lại », và cho
phát thanh đêm ngày trên đài, như một lời ước hẹn trở lại của người Nhật.
Việc
thay đổi lời ca như thế, ảnh hưởng một cách nghiêm trọng đến tâm lý quần chúng,
nên những nhân viên tình báo của phe kháng chiến trong lòng địch bèn thông tin
cho Trùng Khánh, thủ phủ của kháng chiến biết.Tưởng Giới Thạch bèn đích thân ra
lệnh cấm hát bài ca này.Đồng thời những dĩa nhựa “Hà Nhật Quân Tái Lai”của công
ty sản xuất chưa bán ra cũng bị tịch thâu để tiêu hủy.Các đài phát thanh thuộc
phe kháng chiến cũng không còn hát “Hà Nhật Quân Tái Lai” nữa.“Hà Nhật Quân Tái
Lai” đang từ điểm cực thịnh bị rơi xuống hố thẳm. Bị coi là nhục quốc thể.Bị
cấm hát, im lìm, không còn được ai nhắc đến nữa.
Sau
khi Nhật bại trận, năm 1952, khi Lý Hương Liên trở về Nhật Bản, mới lại đem “Hà
Nhật Quân Tái Lai” ra hát lại và thâu vào đĩa nhựa, cả Nhật văn lẫn Hoa văn.
Năm
1966, hãng phim “Thiệu Thị Công Ty” tức công ty Shaw Brothers, từng sản xuất
các phim nổi tiếng chiếu ở SaiGòn trước 1975, như “Độc Thủ Đại Hiệp”, “Long Hổ
Quyết Đấu”… không biết Đài Loan có lệnh cấm bài “Hà Nhật Quân Tái Lai”, và cũng
không biết Lưu Tuyết Am lúc đó đang bị Trung Cộng phê đấu, hành hạ, vì là tác
giả của bài hát này, Thiệu Thị Công Ty cho quay một bộ phim mang tên “Hà Nhật
Quân Tái Lai” cùng với tên bài hát, nhưng may mắn không bị cấm.Ngay cả phim
“Lam Dữ Hắc” của Lâm Đại cũng dùng “Hà Nhật Quân Tái Lai” làm nhạc đệm mà cũng
không bị nhà cầm quyền Đài Loan để ý xử lý.
Đến
năm 1980, “Hà Nhật Quân Tái Lai” mới hòan tòan được Đài Loan tháo giây cởi
trói, cho phép hát lại.Lúc đó, ca sĩ Đặng Lệ Quân đem bài hát này chỉnh biên
lại, nhờ thế, “Hà Nhật Tân Tái Lai” được rời khỏi “lãnh cung” ra với quần
chúng.
Hà Nhật Quân Tái Lai – Đặng Lệ Quân ( Teresa Teng )
Đến khi Trung Cộng thi hành chính sách Cải Cách Khai Phóng, “Hà Nhật Quân Tái
Lai” may mắn được trở về lục địa, được dân chúng hoanh nghênh nhiệt liệt, vì
giọng ca và cách trình diễn của Đặng Lệ Quân trội hơn tất cả những ca sĩ đã hát
bài này trước đó, hơn nữa thính giả lại được nghe miễn phí lúc đầu.
Năm
1982, giữa lúc “Hà Nhật Quân Tái Lai” và Đặng Lệ Quân được sự hâm mộ nhiệt tình
của quần chúng, thi ban bảo vệ văn hóa tư tưởng của Trung Cộng lại có nhận định
cho rằng đây là một bài ca không chính đáng, mang tính chất “bán phong kiến,
bán thực dân”, là “hòang sắc ca khúc”, là “nhạc vàng ủy mị”, bèn ra lệnh cấm
thâu nhập, truyền bá.Cũng như chính phủ Nhật Bản trước đó, nhà đương cục lục
địa còn cho rằng “Hà Nhật Quân Tái Lai” còn mang ẩn ý hy vọng ngày phản công
của Quốc Dân Đảng tái chiếm lục địa.
Thế
là “Hà Nhật Quân Tái Lai” lại bị nhà cầm quyền Trung Cộng cho vào “lãnh cung”.
Đặng Lệ Quân bị “cấm túc”, không cho đặt chân lên lục địa.
Còn
Lưu Tuyết Am, cha đẻ của ca khúc này, cũng phải chịu một vận mệnh oan nghiệt,
cơ cực, nhiều truân chuyên không kém gì đứa con tinh thần của mình.
2-Về tác
giả Lưu Tuyết Am
Lưu
Tuyết Am sinh năm 1905, người Đồng Huyện tỉnh Tứ Xuyên, thời thơ ấu học ở
trường huyện.Vì có máu yêu thích âm nhạc, ngay từ nhỏ, ông đã sớm được tập
luyện về dương cầm,vĩ cầm, côn khúc.Sau vì cha mẹ bị bệnh đều qua đời hết, ông
phải bỏ học, đi làm công để mưu sinh.
Năm
1926, ông thi vào học trường Mỹ Thuật Chuyên Khoa Học Hiệu ở Thành Đô, học vẽ
với thầy là Lý Đức Bồi.Vừa học vừa làm trong vòng ba năm.Năm 1929, trường học
vì lý do chính trị bị điều tra đóng cửa.Ông chuyển lên Thượng Hải xin vào học
trường Âm Nhạc Chuyên Khoa Học Hiệu, chuyên học về sáng tác nhạc và học dương
cầm với Lý Duy Ninh,Tiêu Hữu Mai và Hòang Tự.
Năm
1930. Lưu Tuyết Am bắt đầu viết nhạc. Bài “Phiêu Linh Đích Lạc Hoa” là “xử nữ
tác” của ông, tiếp đến những bài “”Đạp Tuyết Tầm Mai”, “Phi Nhạn”, đều là những
bài được sáng tác khi còn ở trong trường.Ông trở thành môn sinh đắc ý của giáo
sư âm nhạc Hòang Tự.
Sau
đó, ông còn sáng tác nhiều bài khác mang tính chất nghệ thuật, được quần chúng
ưa thích như “Hồng Đậu Từ”, “Trường Thành Dao”.
Rồi
sau khi tốt nghiệp, trong buổi lễ kỷ niệm liên hoan của trường “Thượng Hải Quốc
Lập Âm Nhạc Chuyên Khoa Học Hiệu”, Lưu Tuyết Am đã sáng tác một vũ khúc theo
điệu Tango, có tên là “Hà Nhật Quân Tái Lai”.
Và
chính vì ca khúc này mà về sau ông bị chụp mũ là “Hán gian”, viết “nhạc vàng ủy
mị”.
Năm
1957, ông bị Trung Cộng xếp vào hạng “hữu phái”.Đến thời kỳ “Văn Hóa Đại Cách
Mạng”, ông bị Hồng Vệ Binh phê đấu một cách tàn nhẫn, thậm chí bắt ông phải
thừa nhận là vào thời quân Nhật mới bắt đầu xâm lấn Trung Hoa, chữ “Quân君 ” trong “Hà Nhật Quân Tái Lai 何日君再來”, là chữ “quân 軍” trong “Nhật Bản Hòang Quân 日本皇軍”, ông bị kết tội là một tên “đại mãi quốc tặc”.
Ông
bị bỏ tù và chịu lao động cải tạo trong 10 năm.Sau đó bị điều về làm giáo thụ
trường “Bắc Kinh Nghệ Thuật Học Hiệu”, để tiếp tục lao cải.Công việc hàng ngày
của ông ở đây chỉ là hót phân, quét cầu tiêu.Ông đội mũ cắm cúi im lặng làm
việc. Mất hết cả nhân phẩm.Ông không dám ngẩng mặt nhìn người khác. Và người ta
cũng sợ không dám nhìn ông mà liên lụy, nên bạn bè đều lảng tránh xa ông cả.Vận
mệnh của ông thật là bi thảm, làm khổ lây đến người vợ hiền lành là bà Kiều
Cảnh Vân, khi bà lấy thân đỡ đòn cho ông, nên bị Hồng Vệ Binh đá tàn nhẫn vào
hạ thể, bị trọng thương rồi từ trần.
Mãi
về sau này, năm 1985, Lưu Tuyết Am mới được bình phản, phục hồi lại danh dự
.Thì hỡi ơi, phong chúc tàn niên, hai mắt ông đã mù, thân ông như ngọn đèn tàn
chờ cơn gió thỏang đưa cuộc đời tài hoa nghệ sĩ của ông sang một bờ suối khác,
trả lại cho hồng trần bội bạc những oan nghiệt, trầm luân.
Lưu
Tuyết Am không phải là người nghệ sĩ tài hoa duy nhất và đầu tiên trong lịch sử
Trung Quốc bị những mưu toan chính trị, ở phía này hay phía khác, vu cáo và
bách hại.Cổ kim xưa nay, trước ông đa số các hòang đế bạo quân, thường để lại
những vụ án văn học thảm khốc.
Ông
mất ngày 13 tháng 3 năm 1985, sau khi đã để lại một số những tuyệt phẩm làm vui
tươi cuộc đời.
3-Nguyên
lời ca khúc của “Hà Nhật Quân Tái Lai”
Dưới
đây là lời ca chữ Hán của bài « Hà Nhật Quân Tái Lai » do Bối Lâm viết, nhạc
của Lưu Tuyết Am.Bối Lâm là hóa danh của kịch tác gia Hòang Gia Mô, người đã
viết truyện phim“Tam Tinh Bán Nguyệt –Nửa vàng trăng khuyết ba sao giữa trời”.Lời
của nguyên tác dài hơn lời của ca sĩ Đặng Lệ Quân biên chỉnh lại mà người ta
thường nghe sau này.Ca khúc láy đi láy lại nhiều lần“Đêm nay ly biệt rồi, bao
giờ anh trở lại”.Nghe quyến luyến và day dứt vô cùng.
Người
viết xin ghi lại dưới đây:
何日君再來
Hà
Nhat Quân Tái Lai
作曲﹕劉雪庵
Tác
khúc : Lưu Tuyết Am
作詞﹕貝林
Tác
từ :Bối Lâm
好花不常開好景不常在愁堆解笑眉淚灑相思帶
Hào
hoa bât thường khai, hào cảnh bât thường tại,sâu đôi giải tiểu my, lệ sái tương
tư đái
今宵離別後何日君再來喝完了這杯請進點小菜
Kim
tiêu ly biệt hậu, hà nhật quân tái lai, hát hòan liễu giá bôi, thỉnh tiên điểm
tiểu thái
人生難得幾回醉不歡更何待
Nhân
sinh nan đắc kỷ hôi túy bât hoan cánh hà đãi
(男白) 來來來喝完了這杯再吧
(Nam
bạch) Lai lai lai, hát hòan liễu giá bôi tái thuyêt ba
今宵離別後何日君再來
Kim
tiêu ly biệt hâậu , hà nhâật quân tái lai
曉露濕中庭沉香飄 寒鴉依樹棲明月照高台
Hiểu
lôộ thâp trung đình, trâm hương phiêu hộ ngoại, hàn nha y thụ thê, minh nguyet
chiêu cao đài
今宵離別後何日君再來喝完了這杯請進點小菜
Kim
tiêu ly biệt hâậu, hà nhâật quân tái lai, hát hòan liêu giá bôi, thỉnh tiến
điểm tiểu thái
人生難得幾回醉不歡更何待
Nhân
sinh nan đac kỷ hôi túy bât hoan cánh hà đãi
(男白) 來來來再敬你一杯
(Nam
bạch) Lai lai lai, tái kính nễ nhât bôi
今宵離別後何日君再來
Kim
tiêu ly biêt hậu, hà nhật quân tái lai
玉漏頻相催良辰去不回一刻千金價痛飲莫徘徊
Ngọc
lau tân tương thôi, lương thân khừ bât hôi, nhât khắc thiên kim giá, thống ẩm
mạc bồi hồi
今宵離別後何日君再來喝完了這杯請進點小菜
Kim
tiêu ly biệt hậu, hà nhâật quân tái lai, hát hòan liêu giá bôi, thỉnh tiến điểm
tiểu thái
人生難得幾回醉不歡更何待
Nhân
sinh nan đac kỷ hôi túy bât hoan cánh hà đãi
(男白) 來來來再敬你一杯
(Nam
bạch)Lai lai lai, tái kính nễ nhât bôi
今宵離別後何日君再來
Kim
tiêu ly biệt hậu, hà nhâật quân tái lai
停唱陽關疊重擊白玉杯殷勤頻致語牢牢撫君懷
Đình
xướng Dương Quan Điep, trùng kích bạch ngọc bôi, ân cân tân chí ngữ, lao lao
phủ quân hòai
今宵離別後何日君再來喝完了這杯請進點小菜
Kim
tiêu ly biệt hậu, hà nhâật quân tái lai, hát hòan liễu giá bôi, thỉnh tiến điểm
tiểu thái
人生難得幾回醉不歡更何待
Nhân
sinh nan đac kỷ hôi túy bât hoan cánh hà đãi
(男白) 哎再喝一杯乾了吧
(Nam
bạch) Ai, tái hát nhát bôi càn lieu ba
今宵離別後何日君再來
Kim
tiêu ly biệt hâậu, hà nhâật quân tái lai
Bản dịch Viet xin coi phân chú thích bên
dưới
4-Hà
Nhật Quan Tái Lai du nhập Việt Nam vào năm nào?
Như đã
trình bầy ở trên, khi hát mấy câu :
Em có
chồng sao em không nói,
Để anh
theo anh ghẹo em hoài
Tôi
cũng như những người bạn đồng trang lứa lúc bấy giờ, chúng tôi chỉ hát một cách
vô thức, khônhg mang một chút ý nghĩa nào.Việc « tỏ tình » với người liền chị
hàng xóm năm xưa, là một việc thầm kin riêng tư đến sau này của mình tôi mà
thôi.Cũng như lớp trẻ con sau năm 1975, chúng thường bảo nhau nghêu ngao hát «
nhái » một bài hát rất thịnh hành của Trịnh Công Sơn ngày trước đó:
Từ Bắc
vô Nam tay cầm cái roi
Tay
kia cầm sợi dây để bắt con cầy.
Tuổi
thơ nào cũng đều vô tư và giống nhau như thế cả.
Do
đó, tôi không hề đặt câu hỏi về xuất xứ của câu hát này, và bài “Hà Nhật Quân
Tái Lai” đã được du nhập vào Việt Nam như thế nào, vào năm nào.Đây là một câu hỏi,
chúng tôi không có tai liệu để trả lời.Cũng may, một ông bạn già vong niên,
trong lúc trà dư tửu hậu ở quán thịt dê, đã cho tôi biết là ông đã từng được
nghe bài “Hà Nhật Quân Tái Lai” vào đầu thập niên 1940, khi đó ông còn trẻ, lúc
ông mới bước chân vào ngưỡng cửa Thành Chung.
Thời
bấy giờ, “Hà Nhậtt Quân Tái Lai” là bài hát khá thịnh hành trong các vũ trường,
hộp đêm.Ông còn nhớ được, tuy không chắc chắn đầy đủ, lời tiếng Việt của bài
hát đại để này như sau :
Bao
Giờ Anh Trở Lại
Đi để lại
hình bóng
Gợi
nhớ thương dào dạt trong lòng,
Em
nhắn nhủ thời gian
Đem đến
trả tình quân
Ai
biết chăng êm đềm gió thu
Ai
biết cho lòng em âu sầu
Như lá
thu vàng vừa rơi
Lướt
trên hồ đằng xa
Còn
mong sẽ có một tương lai nữa nhỉ
Giữ duyên
khỏi phai
Mai
kiếp phong trần lôi kéo đời
Em
nhắn nhủ tình quân
Đi
lại một kỳ tới xuân
Dĩ
nhiên, chắc chắn đây không phải là lời dịch của bài “Hà Nhật Quân Tái Lai”,
nhưng ý và lời Việt của bài hát này cũng mang đầy tính lãng mãng như lời của
nguyên bản.Lời ca cứ như quấn quýt quện vào nhau, không rời.Nói lên được sự
quyến luyến triền miên của người con gái trước lúc chia tay từ giã người
tình.Đúng là :
”Nhất
cú ly ca nhất độ sầu-一句离歌一度愁”
Đây
là một bài viết mua vui, viết để đáp lại câu hỏi của người bạn già tóc trắng,
cùng một số bằng hữu của ông, muốn tìm hiểu về lai lịch của bài “Hà Nhật Quân
Tái Lai”. Và cũng để tạ cái tình ông đã “khởi động” cho tôi sống lại một kỷ
niệm về một câu hát của tuổi thơ ấu năm xưa.
Kính
chúc vạn an.
Paris,
ngày 14-1-2011-Lúc 11h 45-
Phạm Xuân Hy
CHÚ THÍCH
Dương Quan 陽 關
Là
tên một cửa quan một cửa quan, nằm cách thành phố Đôn Hòang tỉnh Cam Túc, hơn
bẩy mươi cây số về phía tây.Mới đầu, cửa quan này được cất dưới triều đại của
Hán Võ Đế.Nhân vì Dương Quân nằm ở phía nam của Ngọc Môn Quan, nhân thế mà thành
tên Dương Quan (ngày xưa vùng đất phía nam của núi thì gọi là dương 陽).Vì thế, Dương Quan và Ngoc Môn Quan được xưng là
Nhị Quan
Dương
Quan được coi là yết hầu của đường giao thông cổ xưa đến Tây Vực, Đồng thời,«
Dương Quan » cũng là tên gọi của một ca khúc, gọi tắt từ tên « Dương Quan Tam
Điệp »,bắt nguồn từ bài thơ được phổ nhạc của Vương Duy là « 送元二使安西 –Tống Nguyên Nhị SứAn Tây» trong đó có hai
câu :
勸君更盡一杯酒
Khuyên
quân cánh tận nhất bôi tửu
西出陽關無故人.
Tây
xuất Dương Quan vô cố nhân
(Khuyên
chàng cạn hết chén này –Dương Quan tây xuất không còn cố nhân).
Và vì
thế Dương Quan được coi là bài hát tiễn biệt nhau.
Lư Câu Kiều Sự Biến 盧溝橋事變
Lư
Câu Kiều (tây phương gọi là cầu Marco Polo) nằm ở phía tây nam Bắc Kinh 15 cây
số, nhân cầu nằm bắc ngang sông Lư Câu Hà mà thành tên gọi, là cây cầu bằng đá
tối cổ của thành phố Bắc Kinh tồn tại đến ngày nay.
Lư
Câu Kiều sự kiện là sự kiện đánh dấu ngày Nhật Bản phát động cuộc xâm lấn Trung
Hoa, và cùng là ngày người Trung Hoa kỷ niệm bắt đầu kháng chiến.
Từ
tháng 6 năm 1937, Nhật Bản liên tiếp tăng quân ở vùng Bình Tân, và tại vùng phụ
cận Uyển Bình Huyện, Bắc Bình diễn tập quân sự để khiêu khích.
Đến
đêm 7 tháng 7 năm 1937, trưởng cơ quan đặc vụ của Nhật Bản là Tùng Tiến nói dối
là có một binh sĩ Nhật Bản bị mất tích khi diễn tập, yêu cầu được tiến hành
điều tra ở Uyển Bình Huyện.Sự yêu cầu này bị Trung Hoa cự tuyệt.Nhật Bản lập
tức phát động cuộc tấn công vào phía quân Trung Quốc đóng ở Lư Cầu Kiều, và
oanh kích vào Uyển Bình Huyện.
Dưới đây là bản dịch « Hà Nhật Quân Tái Lai »
Hoa đẹp không
thường nở, cảnh đẹp hiếm khi còn, buôn lâp đây khóe mắt
Đêm
nay xa nhau rôi, bao giờ anh trở lại ? Xin cạn chén này đi,
gắp thêm vài miêng nhắm
Đời ngườii
say được mây lân, Không vui chờ đên bao gời mới vui?
Giọng nam :
Lại đây!
Lại đây ! Hãy lại đây!Cạn hêt chén này rôi nói tiêp !
Đêm
nay xa nhau rôi, bao giờ anh trở lại ?
Sương
sớm ướt mái đình, trâm hương bay ngòai ngõ, quạ buồn kêu ngọn
cây, lâu cao trăng sáng tỏ
Đêm
nay xa nhau rôi, bao giờ anh trở lại ? Cạn xong chén này đi, gắp
thêm vài miêng nhắm
Đời
ngườii say được mây lân, Không vui chờ đên bao giờ mới vui?
Giọng nam :
Lại đây!
Lại đây ! Hãy lại đây! Cạn hêt chén này rôi nói tiêp.
Đêm
nay xa nhau rôi, bao giờ anh trở lại?
Trông
canh thôi thúc điểm,ngày vui không trở lại, một phút giá ngàn
vàng,say đi đừng hờ hững
Đêm
nay xa nhau rôi, bao giờ anh trở lại ? Cạn xong chén này đi, gắp
thêm vài miêng nhắm
Đời người say được
mây lân, Không vui chờ đên bao giờ mới vui?
Giọng nam:
Lại đây!
Lại đây ! Hãy lại đây, mời anh thêm chén nữa
Đêm
nay xa nhau rôi, bao giờ anh trở lại ?
Thôi đừng
hát khúc Dương Quan, cùng nâng chén bạch ngọc,vài lời ân cần gửi gấm, xin anh
giữ kỹ
trong
lòng
Đêm
nay xa nhau rôi, bao giờ anh trở lại? Cạn xong chén này đi, gắp
thêm vài miêng nhắm
Đời
người say được mấy lần, Không vui chờ đên bao giờ mới vui ?
Giọng nam :
Nào !
cạn thêm chén nữa nhé
Đêm
nay xa nhau rôi, bao giờ anh trở lại
304Đen
– Llttm -OVV
No comments:
Post a Comment