Để Nhớ Đám Bạn Cùng Lớp Sư Phạm Sài Gòn
Viết cho những người bạn
cùng lớp Nhất 10 Nhị 10, khóa 8 SPSG, đã không găp lại từ ngày ra trường năm
1971
Đọc
các bài viết của quý anh chị SPSG, trên các trang mạng quen, tôi hết sức phục vì quý anh chị
còn nhớ rành rành, tên thầy cô, tên môn học này môn học kia, chứ bản thân mình,
tiếc và xin “chịu thua” vì không nhớ
được gì nhiều, chỉ man mán nhớ năm đó hiệu trưởng là thầy Nguyễn Hữu Phước,
giáo sư Tôn Thất Trung Nghĩa, giám thị bác Huỳnh Hữu Thanh và cô Hảo, vậy thôi,
không thêm được ai nữa nhưng nhóm bạn cùng lớp Nhị niên 10 thì lại không quên
tên, còn nhớ mặt dù có lẽ bây giờ, gần nửa thế kỷ rồi.
Bài viết này xin
được xem như một chút hồi nhớ về mớ kỷ niệm vụn vặt xưa, có buồn có vui, với những
người bạn đã cùng tôi “đi bên và đi qua một
phần đời nhau” trong những ngày tháng ở trường SPSG của năm sáu chín bảy mốt,
những kỷ niệm sẽ mang theo hay bỏ lại cho đời làm sao biết, thôi thì xin hãy “tha thứ cho nhau để được an lòng”, trong
chuyến đi xa thiên thu định mạng mai này, ở một phía bên trời nào đó của một kiếp
người, không chừng mình sẽ gặp lại nhau.
*
Rớt Tú Tài Hai, tội
vì mình, “ham vui, yêu vội” hơn là tại
trời, tôi không dám về nhà, biết ba mẹ tôi buồn nhiều lắm nhưng cũng đành. Tôi ở
lại Sài Gòn, dù mới chỉ biết Sài Gòn vài ngày qua hai lần thi, nhắn người chị gái
bà con, chuyên mua hàng về tỉnh bán lại, cho ông bà biết tin, mò qua bên nhà
ông cậu Út, em bà con bạn dì với mẹ, bên Gò Vấp, cậu làm thợ máy sửa xe quân đội
trong công xưởng gì đó, xin tá túc vài bữa, quyết tâm “học ngày học đêm”, nhất định phải thi lại kỳ hai cho đậu. Vùi đầu “thề thốt với đèn khuya” chừng một tuần lễ,
không học vô được chữ nào hết, càng rối bời thêm, chữ nhớ chữ quên, cuối cùng bỏ
cuộc, ăn nhờ ở đậu cho qua ngày tháng, tính trong đầu chuyện trở lại ngồi ghế Đệ
nhất năm tới, trường nào, ở đâu cũng chưa biết. Cậu có tiệm sửa xe nhỏ trước
nhà, nên cậu cho tôi phụ mấy việc lặt vặt mặc dù đã có hai ba anh thợ rành nghề
lo, tôi rành nghề thơ vịn, nhờ vậy cũng có được mớ tiền để dành phòng thân, cơm
nước thì cậu mợ cho ăn không gần cả tháng trời.
*
Vào SPSG để mà có học cái gì đó, chứ nói yêu
nghề “gõ đầu trẻ” thì không chắc lắm,
tình cờ một hôm trời mưa lâm râm giữa mùa hè, vào quán cơm chay bên góc đường
Hàm Nghi, ngó ra ga xe lửa, bàn chật hết, xớ rớ dáo dác tìm chỗ, một chị ngồi một
mình khá đẹp, còn ghế trống đối diện, gọi bảo tới ngồi chung, có lẽ thấy tội
nghiệp thằng nhỏ “áo quần thất thểu sao
đó”, chị tức cười rồi gợi chuyện, tôi cũng làm một màn “tâm sự đời tôi”, chị là cô giáo trường
tiểu học Bà Triệu, gần hảng bia 33, đường Trần Hoàng Quân, học SPSG ra trường
cách đây năm sáu năm, nghe lời chị , tôi thấy có lý gật đầu, ăn xong chị đi trước,
ra tới cửa còn quay lại cười, chúc may mắn, vì phải thi vô, nếu thấy được, cuối
cùng tôi đậu, nhờ cái may mắn mà chị chúc, chứ chắc chẳng tài cán gì. Vào SPSG
rồi, vài ngày sau mới dám về lại quê thăm ba mẹ, ông bà mừng ra mặt, không rầy
rà, thật ra đã biết tôi đang ở với cậu Út, do mợ Út, mách lại khi về trên đó
thăm nhà.
*
Tôi quen Trung ngày
đầu nhập học, Trung dân Phú Giáo, Bình Dương, cùng một lớp, anh ta đưa tôi về
gác trọ, nhỏ nhưng khá gọn, trong cái hẽm sâu, trên đường Cộng Hòa, gần chợ
Nancy, không xa trường Sư Phạm bao nhiêu, ở đây có anh Sinh, cũng người Bình
Dương, lên năm thứ hai trọ chung, hai người giới thiệu tôi với bà chủ, bác Hai,
người miệt Cái Bè Cai Lậy, có xe hàng lên xuống Sài Gòn, và cô cháu phụ việc
nhà tên Quyên, chừng mười bảy mười tám, tròn trịu dễ thương, cám ơn cậu mợ Út, tôi
dọn về ở đây hôm sau, xem như có chỗ ăn chỗ ở đàng hoàng từ ngày đó.
Người tôi nhớ trước
nhất phải nói là Trung, không có Trung tôi không có được một chỗ tương đối tươm
tất, tiền ở tiền ăn vừa phải, đối với tôi, “không
người thân không họ hàng” ở Sài Gòn này thì đó là một may mắn quá lớn,
Trung hiền lắm, ăn nói từ từ, ít khi cãi cọ gì với ai, chuyện gì cũng bỏ qua
cũng cười trừ, bên cạnh Trung thì Sinh, vì là đàn anh, cũng hiền khô nhưng đôi
lúc thắc mắc chút đỉnh cho vui vậy thôi, chắc là trời sinh ra như vậy để có thể
gọi là “thầy giáo làng” mới đúng, hai
ba lần theo anh ta về quê Phú Giáo chơi, gia đình Trung không khá giả gì, đủ ăn nhưng ba mẹ rất niềm nỡ ân cần.
Cũng hiền, cũng không to tiếng nhưng hay đưa ra ý này ý nọ, là Thật, dân Phan
Thiết, người ốm cao, giọng rặt dân Phan Thiết, nhanh nhẹn, có mấy cô xúm quanh
thì thường ra vẻ nghiêm trang nhưng trong suốt hai năm học SP, không thấy anh ta
cũng như Trung “anh theo Ngọ về” với
ai cả. Trong lớp còn Đông, cùng quê với Thật, người có nước da đen, hay kiểu cọ
chút chút nhưng dễ thương, dễ có cảm tình.
Cũng khó mà quên
anh chàng trưởng lớp “Bắc kỳ” Phố, để
râu mép, xuề xòa, ai nói sao cũng được, chẳng làm phiền bạn bè, cởi mở, không
so đo thắc mắc, không kiểu cọ bày vẻ, hút thuốc chút ít. Quan, coi như người
anh, cùng với Thưa và Quân, cùng khóa nhưng khác lớp nhị niên, không nhớ là nhị
niên nào, ba người quê Long Hoa Tây Ninh, Thưa với Quân cả hai đều ưa hút thuốc,
hiền khô chẳng làm phiền lòng ai, tuy nhiên Quân vì quá nhỏ con, khá thấp, nên
đôi khi đổ quạu vì bị chọc chuyện “cao thấp”.
Quan có cái miệng cười tươi, ăn nói chậm rãi, tĩ mĩ, thường ngày đến trường lúc
nào cũng cái quần “jean” xanh dương và áo sơ mi trắng cụt tay ủi thẳng băng, cả
Quan và Thưa đều đã có bạn gái trên tỉnh nhà, nên không thấy “trộm nhìn nhau” gì cô này cô nọ. Gòn
thì trầm lặng, chưa tốt nghiệp mà đã mẫu mực như “ông thầy” rồi, Hoàn, không nhớ được họ, biết đàn vọng cỗ sáu câu,
người trông có vẻ “văn nghệ văn gừng”,
cũng không làm ai phiền, chọc phá tiếu lâm cười cho vui vậy thôi, Luông, dân Suối
Sâu, Suối Cụt, nhà nằm bên quốc lộ đi Tây Ninh, tướng tá cao lớn nhưng lưng
tôm, người ít nói nhất trong đám, lo học nhiều hơn chơi, chưa ra trường đã “cặp đôi” với Thu Thủy, cùng lớp, rồi cưới
nhau. Tân dân Huế nói chuyện như ông “cụ
non”, vui vẻ siêng năng, đi đứng điệu bộ như “thầy thứ thiệt”. Phụng trai thì lầm lầm lì lì, chăm chỉ học hành, không
nói năng gì, cười cũng để dành cho mình nhưng được cái là không phiền hà ai, bạn
bè cũng chẳng ai thắc mắc.
Mấy chị gái, thì
hai người ngồi chung bàn đầu trong lớp khó mà quên được, Kim Loan và Phụng, Kim
Loan, nhỏ nhẹ, ít nói hơn Phụng, chị này đôi khi khó chịu chút chút nhưng cũng
vui vẻ hòa đồng với cả lớp, Thu Thủy trầm tính, ngó qua ngó lại không lâu thì
anh Luông đã phải lòng rồi ưng ý nhau, trở thành “đôi tình nhân” đầu tiên trong lớp, Vy Thủy dáng dấp cao sang, cũng
cười nói, giọng Bắc nhưng xem ra lạnh lùng, không giống Phố, cũng “Bắc kỳ”
nhưng bị “Nam kỳ hóa” mất rồi, Vy Thủy
không gần gũi lắm với bạn bè, khác với Kim Loan, Phụng và mấy chị khác lúc nào
cũng ồn ào “mình mình tui tui”, Huệ,
gầy cao, mặt xương xương, người nam nhưng khó chịu, khó chịu vậy chứ chẳng phiền
hà ai, Huệ thường cặp đôi với Chói, đôi khi cũng có Phố đi kèm. Với Chói, tôi
có nhiều chuyện nhớ hơn mấy người khác, nhưng những chuyện này, coi như là “xin nhớ cho mùa thu đã chết rồi”, chỉ
riêng mình hiểu. Còn vài bạn nữa nhưng “đành chịu”, cố lắm cũng không nhớ
tên được, quý anh chị mà “thằng này” không nhắc tới, nếu có đọc bài này,
hy vọng là có đọc, xin miễn chấp, tha thứ cho và nhận đây như là một lời thân
tình tạ lỗi.
*
Tôi đậu lại Tú Tài
Hai, thí sinh tự do, thi tại trường trung học Nguyễn Trải, bên Khánh hội, cuối
năm nhất niên SP rồi năm sau đậu chứng chỉ Cử Nhân 1 Văn khoa ban Sử Địa, đậu
luôn Cử nhân 1 Luật, cùng lúc thi tốt nghiệp SP, nói thật cho tới giờ cũng
không biết kết quả đậu rớt ra sao. Hè năm cuối ra trường, ai nấy tất tả về quê,
chờ ngày đi dạy đâu đó xa gần, tôi đã không gặp lại đám bạn từ đó, và cũng từ
đó tới giờ, hơn nửa thế kỷ rồi, chẳng ai rảnh mà nhắc tới tôi. Năm sau tôi sang
học ngành khác, rồi cũng ra trường, làm việc ở một tỉnh cao nguyên đèo heo hút
gió mà người ta hát “phố xá không xa trời
đất thật gần, đi dăm phút trở về chốn cũ, ở đây buổi chiều quanh năm mùa Đông”,
yên lòng với những gì mình đã chọn, lăn lóc theo đời, quên dần ngày tháng
SPSG cũ, trong đó có bạn bè và một
người có nhiều kỷ niệm với nhau hơn dù không trọn nhưng không bao giờ quên được.
*
Tháng Ba Ban Mê Thuộc
mất, quân VNCH rút bỏ cao nguyên, đoàn người hơn mấy chục ngàn dân lớn nhỏ,
hàng hàng lớp lớp, ròng rã ngày đêm, gồng gánh, dắt dìu nhau đi từ Pleiku xuống
theo con đường liên tỉnh lộ 7, con đường còn lại duy nhất mà đi. Cũng cả chục ngày
đêm, qua Hậu Bổn, Phú Thiện, Phú Túc, sương rừng gió núi, nắng cháy da người,
chết chóc, đói khát, khóc than rồi cuối cùng tôi cũng về tới Hiếu Xương, Tuy
Hòa sau những ngày đêm từ hôm bỏ Pleiku xuôi Nam. Về Sài gòn, sống được với Sài
Gòn dăm ba ngày thì miền Nam thua cuộc, cũng như bạn bè cùng ngành nghề khác,
quân đội dân sự, tôi vào tù của chế độ mới, được tha chừng hai năm sau, hên
xui, vì theo lời họ, chưa “gây nợ máu” bao nhiêu.
*
Trời mưa lớn, cuối mùa ở đây, mưa xứ
người, có chút lành lạnh ngoài sân trường, ngồi nhìn đám học trò yên lặng làm
bài thi Tú Tài cuối năm trong phòng, nghe tiếng mưa bỗng dưng chợt nhớ người
xưa bạn cũ, đám bạn học làm “thầy giáo cô
giáo” cùng lớp SPSG, da diết, vui ít buồn nhiều, lăn lóc mấy chục năm qua,
hơn nửa đời người mà mỗi lần nhắc tới cứ nhớ.
Lời cuối gởi gió cho mây ngàn bay đâu đó trên
đường định mệnh
*Quan, Thưa, Quân,
Trung, Thật, Đông, Phố, Luông, Gòn, Hoàn, Sinh, Tân, Kim Loan, Phụng, Phụng
trai, Thủy, Vy Thủy, Huệ, và những anh chị khác nữa, không nhớ tên dù cố nhớ...
xin cám ơn các bạn đã cho tôi những kỷ niệm đẹp khó tìm của tháng ngày xa xưa
đó, nhất là nhớ chuyến xe đò hôm kéo nhau về Tây Ninh.
*Riêng Chói, xin được
xem như là một lời tạ lỗi muộn màng, người đã cho tôi rất nhiều dù không nhận lại
được bao nhiêu nhưng vẫn không trách móc.
Phạm Nguyễn
Định
Bài viết cũng đã lâu, chỉnh
sửa, thay đổi lại vài chỗ.
Phố quê Timboon
mưa tháng Ba 2022
No comments:
Post a Comment