BẢN CHẤT CỦA CUỘC CHIẾN VIỆT NAM
LTG: Bài viết không liên quan trực
tiếp đến bài hát “Gia tài của mẹ” ngoài hai chữ “nội chiến”. Người viết chỉ
mượn câu chuyện thời sự này để bàn thêm và bàn rộng hơn từ bài viết “Gọi tên
cuộc chiến” đăng trước đây với hy vọng các bạn trẻ có cái nhìn bao quát và đa
chiều khi tìm hiểu về cuộc chiến Việt Nam. Người viết cũng không nghĩ với bài
này và một số bài khác có thể nhanh chóng làm thay đổi nhận thức của những
người từng là hay đang là nạn nhân của hệ thống tuyên truyền CS. “Tuyên truyền”
và “khủng bố” là hai cánh tay của đảng. Mikhail Gorbachev phát biểu tại
Columbia University ngày 12, tháng 3, 2002 “cả đời tôi sống trong tuyên truyền”
và ông thừa nhận trước thời kỳ perestroika (đổi mới) “LX là một xã hội dối trá”.
Gorbachev may mắn thấy được, thoát ra được và góp phần thay đổi vận mệnh của
các nước thuộc khối LX. Việt Nam còn ít nhưng cũng có những người thấy được và
đang cố gắng thoát ra. Cánh cửa ‘internet’ đã hé mở và mỗi ngày thêm rộng.
Không vật cản nào có thể che được ánh sáng của sự thật và công lý. Mọi thay đổi
đều bắt đầu từ con người. Những người có cơ hội học hỏi không cần phải nhìn xa,
không cần phải so sánh với ai khác, chỉ nhìn lại chính mình để thấy nhận thức
của mình khác dần theo thời gian học hỏi, tìm tòi. Với đà tiến đó, Việt Nam như
một dân tộc chắc chắn một ngày sẽ thay đổi.
--------------
Hôm đó là ngày 21 tháng Hai, 1972.
Mao Trạch Đông thức dậy rất sớm. Ông ta lo cắt tóc và chải đầu bóng loáng. Mao
muốn gặp Tổng thống Hoa Kỳ ngay nhưng theo thủ tục, Tổng thống Nixon cần phải
nghỉ ngơi và sau đó tham dự buổi tiếp tân do Thủ Tướng Chu Ân Lai khoản đải.
Mao đành phải đồng ý nhưng chỉ thị là đưa Tổng thống đến cho y gặp ngay vào
ngày mai. Tổng thống Hoa Kỳ Nixon là người đầu tiên xuống xe, theo sau là Tiến
Sĩ Henry Kissinger và rồi Winston Lord, người sau nầy là đại sứ Hoa Kỳ tại
Trung Quốc. Thế giới đã phải chờ 30 năm để thấy sự thù địch giữa Trung Quốc và
Hoa Kỳ được giải quyết. Mao tin rằng các quốc gia dù với một hệ thống kinh tế
khác nhau vẫn có thể hợp tác được và ông ta đang tìm kiếm sự hợp tác rộng rãi
hơn với các nước tư bản. Theo Mao, dù hợp tác, nhân loại đã và đang bị phân
chia thành ba thế giới khác nhau. Trung Quốc thuộc vào thế giới thứ ba. Vì vậy,
hoà bình, đối với Mao chỉ là tạm thời. (Dr. Li Zhisui, The Private Life of
Chairman Mao, Trần Trung Đạo tuyển dịch, Boston 1997)
Các chi tiết về các thỏa thuận được
bàn ở cấp thấp hơn nhưng nội dung buổi gặp gỡ ngắn giữa Mao và Nixon cho thấy
những vấn đề nhức nhối của thế giới hôm nay, nửa thế kỷ trước cũng đã được đem
ra bàn.
Theo tài liệu của chính phủ Mỹ được
giải mật ngày 11 tháng 12, 2003, hôm đó TT Nixon nói với Mao: “Tôi hy vọng có
thể nói chuyện với Thủ tướng Chu Ân Lai và sau đó là với Chủ tịch về các vấn đề
như Đài Loan, Việt Nam và Hàn Quốc. Tôi cũng muốn nói về — và điều này rất nhạy
cảm — tương lai của Nhật Bản và vai trò của Ấn Độ; và trên bối cảnh thế giới
rộng lớn hơn, tương lai của quan hệ Liên Xô và Mỹ. Bởi vì chỉ khi chúng ta nhìn
thấy toàn cảnh thế giới và những thế lực to lớn đang làm thay đổi thế giới thì
chúng ta mới có thể đưa ra quyết định đúng đắn về những vấn đề cấp bách và
trước mắt luôn chế ngự tầm nhìn của chúng ta.” (Mao Zedong meets Richard Nixon,
February 21, 1972, US-China Institute, USC)
Sau một cuộc chiến quá nhiều tốn kém
về cả nhân mạng lẫn tài sản, TT Nixon tìm cách rút ra. Nhưng để được rút trong
“danh dự”, Mỹ phải thỏa hiệp với một trong hai “đỡ đầu” của CSVN.
Theo sách vở, tại một thời điểm nhất
định bạn chỉ nên có một kẻ thù và nếu có hai, kẻ thù tốt nhất bạn thỏa hiệp là
kẻ thù đang cần thỏa hiệp, trong trường này là TC. Trong buổi gặp Mao, TT Nixon
còn “đổ thêm dầu vào lửa” khi cho Mao biết số quân LX đóng tại biên giới TC còn
đông hơn quân LX đóng ở biên giới với các nước Châu Âu. Đó cũng là điểm khác
nhau căn bản giữa Chủ thuyết Nixon và Chủ thuyết Truman.
Trước đó, trong diễn văn đọc tại Guam
tháng 11, 1969, TT Nixon tuyên bố Mỹ chỉ yểm trợ vũ khí và phương tiện cho các
quốc gia đồng minh nhưng bảo vệ lãnh thổ là trách nhiệm của chính phủ và nhân dân
các nước đó.
Trong thời điểm đó, Mỹ không quá lo
ngại TC về mặt kinh tế. Năm 1972, Tổng Sản Lượng Nội Địa (GDP) của TC là 114 tỷ
dollar, bằng một phần mười của Mỹ và GDP tính theo đầu người chỉ mới 130
dollar. Cho tới 1980, GDP tính theo đầu người của TC cũng chỉ mới lên đến 307
dollar, đứng sau 127 quốc gia. Nước đứng 126 là Cộng Hòa Trung Phi do hoàng đế
và cũng là chàng rể bất đắc dĩ Việt Nam Jean-Bédel Bokassa cai trị. Những hàng
hóa xuất cảng của TC rất giới hạn và phần lớn là đồ dùng trong nhà. Mao khoe
với TT Nixon, TC xuất cảng ớt sang Nam Hàn.
Điều đáng lưu ý là trong Thông Cáo
Chung Thượng Hải, Mao cam kết tiếp tục ủng hộ CSVN hoàn thành các mục tiêu của
đảng, tức CS hóa Việt Nam.
Những lời tiên đoán của TT Dwight D.
Eisenhower trong “học thuyết Domino” ngày 7 tháng 4, 1954 không đúng cho Đông
Nam Á, Á Châu và Châu Đại Dương. TT Eisenhower lo xa khi tuyên bố Miến Điện,
Thái Lan, Nhật Bản, Formosa, Philippines, Úc, New Zealand cũng có thể rơi vào
tay CS. (President Eisenhower's News Conference, Robert Richards, 4, 1954).
Rút ra khỏi Việt Nam không chỉ là chủ
trương của TT Nixon (Cộng Hòa) mà cũng là chủ trương của quốc hội Mỹ do đảng
Dân Chủ chiếm đa số tại cả Thượng Viện lẫn Hạ Viện. Ngày 7 tháng 5, 1974,
Thượng Viện Mỹ với tỉ số 43 trên 38, chống lại yêu cầu của hành pháp chi viện
thêm 266 triệu dollar viện trợ quân sự cho VNCH. Thượng Nghị Sĩ Edward M.
Kennedy, Dân Chủ tiểu bang Massachusetts lãnh đạo cánh chống đối với sự ủng hộ
của các thượng nghị sĩ thuộc đảng Dân Chủ. (New York Times, May 6 1974)
Người viết dài dòng đoạn này để các
bạn trẻ thấy dù đã có hàng ngàn tác phẩm và vô số hội thảo, tranh cãi, phê
bình, oán trách về nguyên nhân, hậu quả, các lý do trực tiếp, gián tiếp dẫn đến
ngày 30 tháng 4. Tuy nhiên bên cạnh các lý do không được mọi người đồng ý, một
lý do đa số đều đồng ý đó là sự thay đổi chính sách của Mỹ tại Á Châu. Lịch sử
bang giao quốc tế diễn ra trong nửa thế kỷ qua cho thấy đúng như vậy.
Nhưng không phải vì việc Mỹ thay đổi
chiến lược mà Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ.Trong hơn ba năm sau đó, chính phủ, quân
đội và nhân dân Việt Nam Cộng Hòa vẫn tiếp tục chiến đấu trong một cuộc chiến
không cân sức, thiếu thốn về mọi mặt.
Sự hy sinh của 58,220 người lính Mỹ
là sự hy sinh to lớn và đáng kính nhưng không thể so với sự chịu đựng của hơn
hai chục triệu dân miền Nam Việt Nam, trong đó hàng triệu quân và dân đã chết
một cách oan ức. Từ những cụ già ở Huế cho đến những em bé còn mặc tả ở nhà
hàng Mỹ Cảnh hay tuổi chưa lên mười ở Tiểu học Cai Lậy đã chết trong tức tưởi
vì tham vọng CS hóa toàn cõi Việt Nam của đảng CSVN bắt đầu tại Cửu Long, Hương
Cảng tháng 2, 1930.
Thế nhưng, quan điểm chiến tranh Việt
Nam là chiến tranh giữa Mỹ và CSVN đã ăn sâu vào nhận thức của không ít các
tầng lớp người Mỹ, từ người dân bình thường cho đến giới trí thức, văn nghệ sĩ,
nhà làm phim Mỹ.
Ngày 23 tháng 3, 2017, Giáo sư Drew
Gilpin Faust, Viện trưởng Viện Đại Học Harvard viếng thăm Đại học Fulbright
Việt Nam. Nhân dịp này bà đọc một diễn văn tại Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân
Văn. Một phần khá dài của diễn văn, bà dành để nói về Chiến tranh Việt Nam, nội
chiến Hoa Kỳ và hòa giải Nam Bắc Mỹ.
Trong suốt diễn văn bà Drew Faust
không hề nhắc đến sự chịu đựng của người dân miền Nam Việt Nam hay nhắc đến
Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), chính phủ đại diện cho hơn một nửa dân số Việt Nam
ngày đó. Người viết không nghĩ bà dè dặt hay không muốn làm buồn lòng quốc gia
chủ nhà. Nhưng giống như một số khá đông các trí thức Mỹ trước đây, sau 44 năm
từ khi các đơn vị trực tiếp chiến đấu Mỹ rút khỏi Việt Nam vào tháng Ba năm
1973, bà vẫn chưa nhìn sâu được vào bản chất của cuộc Chiến tranh Việt Nam.
Bà Drew Faust không hiểu được trên
con đường Việt Nam đầy máu nhuộm chạy dài suốt 158 năm, từ khi viên đại bác của
Rigault de Genouilly bắn vào Sơn Chà, Đà Nẵng sáng ngày 1 tháng 9, 1859 cho tới
hôm nay, nhiều triệu người Việt đã hy sinh vì độc lập tự do dân tộc. Đảng CS là
một nhóm rất nhỏ và chỉ ra đời vào tháng 3, 1930. Cộng Sản thắng chỉ vì họ có
mục đích rõ ràng, dứt khoát, kiên trì và bất chấp mọi phương tiện để hoàn thành
mục tiêu đã vạch ra.
Bà Drew Faust là người học nhiều,
hiểu rộng. Chắc chắn điều đó đúng. Nhưng nghe hay đọc một câu chuyện và cảm
thông với những nạn nhân trong câu chuyện là một chuyện khác. Ngôn ngữ không
diễn tả được hết nỗi đau và đôi mắt thường không thấy được những vỡ nát bên
trong một vết thương. Là một sử gia, bà biết lịch sử được viết bởi kẻ cưỡng
đoạt không phải là chính sử. Chính sử vẫn còn sống, vẫn chảy nhưng chỉ được
hiểu bằng nhận thức khách quan, tinh tế, chia sẻ với những tầng lớp người đang
chịu đựng thay vì đứng về phía giới cầm quyền cai trị.
Người viết xin phân tích một số định
nghĩa về bản chất của cuộc Chiến tranh Việt Nam.
Phải chăng Chiến tranh Việt Nam là
Chiến tranh Ủy nhiệm (Proxy War)?
Chiến tranh Ủy nhiệm là gì?
Chiến tranh Ủy nhiệm (Proxy War) là
cuộc chiến tranh mà các quốc gia bên ngoài, thường là cường quốc, không tham
gia trực tiếp cuộc chiến nhưng qua hình thức cung cấp võ khí, tài chánh cho các
phe cánh, lực lượng trong quốc gia đó đánh nhau vì quyền lợi riêng của các phe
nhóm này nhưng cũng tương hợp với quyền lợi của nước bên ngoài.
Chiến tranh diễn ra tại Syria thường
được báo chí gọi là chiến tranh ủy nhiệm. Mỹ, Nga, Iran, Thổ, Anh, Pháp, Saudi
Arabia và Qatar góp phần tàn phá Syria khi yểm trợ cho các phe nhóm, nhiều khi
bất cần hành vi khủng bố của các phe nhóm này, để tranh giành ảnh hưởng và tài
nguyên của vùng Trung Đông.
Không ít báo chí quốc tế và nhà
nghiên cứu Chiến tranh Lạnh gọi chiến tranh Việt Nam trước khi Mỹ đổ bộ vào
tháng Năm, 1965, là chiến tranh ủy nhiệm, trong đó Trung Cộng, Liên Xô một bên,
Mỹ và đồng minh một bên.
Định nghĩa chiến tranh Việt Nam là
chiến tranh ủy nhiệm chỉ đúng khi nhìn cuộc chiến từ quan điểm đế quốc dù là
Mỹ, Liên Xô hay Trung Cộng chứ không phải từ vết thương, từ vị trí của nạn nhân
buộc phải chiến đấu để sống còn như dân và quân miền Nam Việt Nam.
Như có lần người viết dẫn chứng, một
người lính nghĩa quân gác chiếc cầu ở đầu làng để mấy anh du kích khỏi về giựt
sập cũng là một biểu hiện hùng hồn của lý tưởng tự do và chủ quyền. Chiếc cầu
là huyết mạch kinh tế của làng, là trục giao thông chính của làng, là vẻ đẹp
của làng, và bảo vệ chiếc cầu là nhiệm vụ sống còn mà người lính nghĩa quân
phải làm cho bằng được.
Không ai “ủy nhiệm” anh lính nghĩa
quân cả. Anh không bảo vệ chiếc cầu giùm cho Mỹ mà cho chính anh và bà con
trong thôn xóm của anh. Lý tưởng tự do của một dân tộc dù thiêng liêng to lớn
bao nhiêu cũng bắt nguồn từ những hình ảnh nhỏ nhoi nhưng đầy ý nghĩa đó.
Trong phần lớn chiều dài của cuộc
chiến, quyền lợi của Mỹ ở Đông Nam Á và quyền lợi của VNCH tương hợp. VNCH đã
nhận hầu hết viện trợ quân sự của Mỹ kể cả nhân lực nhưng không đánh thuê cho
Mỹ như CS tuyên truyền.
Chiến tranh Việt Nam là Nội chiến
(Civil War)?
Thế nào là nội chiến?
Theo các định nghĩa chính trị học,
nội chiến (civil war) là cuộc chiến tranh giữa hai thành phần có tổ chức trong
cùng một quốc gia vốn trước đó thống nhất, mục đích của một bên là chiếm đoạt
bên kia để hoàn thành ý định chinh phục lãnh thổ hay thay đổi chính sách nhưng
không thay đổi thể chế.
Theo định nghĩa này, chiến tranh
Nam-Bắc Mỹ là nội chiến, hoặc xung đột võ trang giữa chính phủ da trắng và Nghị
Hội Toàn Quốc Nam Phi (African National Congress) gọi tắt là ANC chống chính
sách Phân biệt Chủng tộc tại Nam Phi là nội chiến.
Bắc Mỹ dưới sự lãnh đạo của TT
Abraham Lincoln thắng cuộc nội chiến Mỹ nhưng chỉ thay đổi chính sách nô lệ,
trong lúc cơ chế chính trị và chính phủ cấp tiểu bang gần như không thay đổi
nhiều.
Tại Nam Phi cũng vậy. Sau cuộc đấu
tranh dài dưới nhiều hình thức, cuối cùng ANC đã thắng nhưng cũng chỉ hủy bỏ
chính sách Phân Biệt Chủng Tộc (Apartheid) tại Cộng Hòa Nam Phi nhưng không xóa
bỏ tổng thống chế và nền kinh tế thị trường. Không chỉ cựu Tổng thống Frederik
Willem de Klerk trở thành cố vấn của TT Nelson Mandela mà nhiều viên chức trong
chính phủ de Klerk, các tư lịnh quân binh chủng, lực lượng cảnh sát quốc gia
đều tiếp tục nhiệm vụ của họ.
Cuộc chiến Việt Nam về hình thức là
nội chiến vì cả hai bên đều là người Việt. Nhưng về bản chất thì không phải.
“Nội chiến” theo cách hiểu bình dân nhất là phải có ít nhất hai bên trong một
nước đánh nhau để chiếm đất đai, tịch thu của cải, cướp chính quyền. Chính phủ
và nhân dân Miền Nam Việt Nam, ngoại trừ các hoạt động tình báo mà các quốc gia
có cơ chế chính trị đối nghịch nào cũng đều thực hiện, không ồ ạt đổ quân vượt
sông Bến Hải để đánh ra miền Bắc, không chủ trương thôn tính miền Bắc và không
nhằm “giải phóng miền Bắc” mà chỉ bảo vệ mảnh đất thiêng liêng họ đã “chọn nơi
này làm quê hương”.
Sau Hiệp định Geneva 1954, chính phủ
và nhân dân VNCH hoàn toàn không muốn chiến tranh. Suốt thời kỳ Pháp thuộc,
người dân Việt chịu đựng không biết bao nhiêu đau khổ dưới ách thực dân, mục
đích trước mắt của chính phủ và nhân dân miền Nam là có được cơm no, áo ấm, có được
cuộc sống tự do và xây dựng miền Nam thành một nước cộng hòa hiện đại.
Sau khi VNCH bị cưỡng chiếm 30 tháng
4, 1975, đảng CSVN không chỉ thay đổi về chính sách như trường hợp Mỹ hay Nam
Phi mà thay đổi toàn bộ cơ chế. Nói theo lý luận CS đó là sự thay đổi tận gốc
rễ từ thượng tầng kiến trúc (chính trị) đến hạ tầng cơ sở (kinh tế) bằng các
biện pháp dã man không thua kém Mao, Stalin.
Khi một cuộc chiến nhằm thay đổi cả
cơ chế kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, lịch sử, về bản chất cuộc chiến đó
không còn là nội chiến nữa. Ai gọi chiến tranh Việt Nam là nội chiến chỉ đúng
về hình thức, nội dung vẫn là chiến tranh của chính phủ và nhân dân miền Nam
yêu chuộng tự do chống ý thức hệ CS xâm lược.
Phải chăng chiến tranh Việt Nam là
"Chiến tranh chống Mỹ Cứu Nước"?
Stalin, trong buổi họp với Mao và Hồ
Chí Minh tại Moscow giữa tháng Hai, 1950 đã phó thác sinh mạng CSVN vào tay
Trung Cộng.
Stalin nói với Hồ Chí Minh tại Moscow
"Từ bây giờ về sau, các đồng chí có thể tin tưởng vào sự giúp đỡ của Liên
Xô, đặc biệt hiện nay sau thời kỳ chiến tranh, thặng dư của chúng tôi còn rất
nhiều, và chúng tôi sẽ chuyển đến các đồng chí qua ngã Trung Quốc. Tuy nhiên vì
điều kiện thiên nhiên, chính yếu vẫn là Trung Quốc sẽ giúp đỡ các đồng chí.
Những gì Trung Quốc thiếu chúng tôi sẽ cung cấp." Sau đó tới phiên Mao, y
cũng lần nữa xác định với Hồ "Bất cứ những gì Trung Quốc có mà Việt Nam
cần, chúng tôi sẽ cung cấp."
Theo Trương Quảng Hoa trong "Hồi
ký của những người trong cuộc" Hồ Chí Minh nói với Mao bằng tiếng Trung
Quốc trên xe lửa từ Liên Xô về Trung Cộng "Mao Chủ tịch, Stalin không
chuẩn bị viện trợ trực tiếp cho chúng tôi, cũng không ký hiệp ước với chúng
tôi, cuộc chiến tranh chống Pháp từ nay về sau chỉ có thể dựa vào viện trợ của
Trung Quốc." (Trương Quảng Hoa, Hồi ký của những người trong cuộc”, Viêm
Hoàng xuân thu số 5,1999, Dương Danh Dy dịch và hiệu đính)
CSVN hoàn toàn lệ thuộc vào Trung
Cộng, không chỉ phương tiện chiến tranh, kinh tế, quốc phòng, hệ ý thức, cơ sở
lý luận mà cả cách nói, cách ăn mặc, cách chào hỏi. Mao gần như đơn phương
quyết định mọi hoạt động quân sự của Việt Minh kể cả việc chọn thời điểm cần
phải thắng tại Điện Biên Phủ để giành lợi thế trên bàn hội nghị. (Qiang Zhai,
China & The Vietnam Wars, 1950-1975, University of North Carolina Press, 2000)
Sau xung đột Eo Biển Đài Loan, và
trầm trọng hơn, sau chiến tranh Triều Tiên với gần 400 ngàn quân Trung Cộng bị
giết, trong số đó có Mao Ngạn Anh (Mao Anying), con trai trưởng và gần gũi nhất
của Mao, từ đó kẻ thù lớn nhất của Mao Trạch Đông là Mỹ. Mao chỉ thị toàn bộ bộ
máy tuyên truyền tại Trung Cộng phải chống Mỹ bằng mọi giá. Chống Mỹ từ xa,
chống Mỹ ở gần, chống Mỹ trong lý luận, chống Mỹ trong thực tế, chống Mỹ khi có
mặt Mỹ và chống Mỹ khi không có mặt Mỹ.
Tuân lệnh Mao, trong Hội nghị Lần thứ
Sáu của Trung ương Đảng CSVN từ ngày 15 đến 17 tháng 7 năm 1954, Hồ Chí Minh và
Bộ chính trị đảng CSVN đã nghĩ đến chuyện đánh Mỹ: “Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ
thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp
của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ.”
Khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước” được
thai nghén từ quan điểm và thời điểm này. Nhưng “nước” trong khẩu hiệu “Chống
Mỹ cứu nước” phải hiểu là nước Tàu chứ không phải nước Việt, lý do trong thời
điểm này chưa có một người lính hay một cố vấn Mỹ nào ở Việt Nam. Hôm đó, 15
tháng 7, 1954, ngay cả Hiệp định Geneva 1954 cũng còn chưa ký.
Thực tế chính trị thế giới trong giai
đoạn sau Thế Chiến Thứ Hai là thực tế phân cực và sự chọn lựa của thời đại là
chọn lựa giữa Tự do hay Cộng Sản. Không chỉ các nước bị phân chia như Triều
Tiên, Đức mà cả các quốc gia không bị phân chia như Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ v.v…
cũng chọn thế đứng dân chủ Tây Phương để làm bàn đạp phát triển đất nước.
Miền Nam có tất cả khó khăn của một
nước cộng hòa đang chập chững đi lên. Miền Nam có đàn áp chính trị nhưng cũng
có đấu tranh chính trị, có ông quan tham nhũng nhưng cũng có nhiều phong trào
chống tham nhũng hoạt động công khai, có ông tướng lạm quyền nhưng cũng có ông
tướng trong sạch, có nghị gà nghị gật nhưng cũng có những chính khách, dân
biểu, nghị sĩ đối lập chân chính.
Nhưng dù có gì đi nữa những khó khăn,
bất trắc đó cũng là những vấn đề của nội bộ miền Nam Cộng Hòa không liên quan
gì đến miền Bắc CS.
Người dân miền Nam có ước mơ “thống
nhất đất nước “ và “đoàn viên dân tộc” không?
Chắc chắn là có.
Nhìn vào kho tàng văn hóa, đặc biệt
trong lãnh vực âm nhạc, của VNCH để thấy mơ ước hòa bình, thống nhất, tự do,
đoàn viên dân tộc là nguồn thôi thúc cho hàng ngàn tác phẩm, nhạc phẩm của văn
nghệ sĩ tại miền Nam. Tình yêu nước trong sáng không bị dẫn dắt hay chỉ đạo
thấm đậm trong lòng người dân:
“…Rồi đây dù lạc ngàn nơi
Ta hướng về chốn xa vời
Tìm mộng xưa lãng quên tháng ngày tàn
phai
Nghẹn ngào thương nhớ
"em"... Hà Nội ơi…”
(Vũ Thành, Giấc Mơ Hồi Hương)
Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng từ Đại Lộc,
Quảng Nam vào Sài Gòn cuối thập niên 1950. Vùng đất “cày lên sỏi đá” đã để lại
trong anh niềm trăn trở sâu đậm về tương lai đất nước. Tại Sài Gòn, nhạc sĩ trẻ
còn trong tuổi hai mươi đã đưa những trăn trở đó vào âm nhạc và hình thành nên
nhạc phẩm để đời: Kinh Khổ. Kinh khổ với lời nhạc như những tiên tri cho một
đoạn đường đầy bi tráng mà dân tộc sắp phải trải qua và ước mơ một ngày nhìn
nhau trong tình anh em ruột thịt:
Lời nguyện cầu này cho nhau
Từ khi loạn ly vào đêm đầu
Tình người tiêu hao. Niềm tin bội bạc
Gà giục sang canh mãi ngoài hiên đầu
tỏ tròn tiếng gáy
Lạnh lùng một ngày một qua mau
Lời kinh mù sương mờ trên đầu
Mộng chờ sau đêm. Ngày mai thật lạ.
Thù hằn anh em
Bỗng nhìn nhau gọi nhau thật đậm đà…
(Kinh Khổ, Trầm Tử Thiêng)
Khát vọng “thống nhất đất nước” như
dòng suối luôn chảy trong tâm hồn người Việt ở miền Nam nhưng không thể thống
nhất bằng hai bàn tay trắng, bằng cái bụng đói, bằng chiếc áo rách, bằng con
đường đất, bằng mái nhà tranh.
Vì thế, chọn lựa xây dựng miền Nam
trước và thống nhất đất nước khi thời cơ thuận tiện là chọn lựa đúng không chỉ
phù hợp với nguyện vọng của người dân mà còn phù hợp với xu thế thời đại.
Trong giai đoạn Chiến Tranh Lạnh bắt
đầu, 1947, ngoài Việt Nam, thế giới có hai quốc gia chia cắt nổi bật là Triều
Tiên và Đức và hai quốc gia chia cắt này để lại hai bài học lớn.
Thứ nhất, bài học Triều Tiên.
Mục đích duy nhất của Kim Nhật Thành
là tập trung cả bán đảo Triều Tiên dưới chế độ CS do y cai trị. Họ Kim sang LX
tháng 3, 1949 và đầu năm 1950 sang LX lần nữa để cố thuyết phục Stalin. Stalin
đồng ý trên nguyên tắc vì tin rằng Mỹ sẽ không can thiệp bằng quân sự. Tháng
Năm, 1950, Kim Nhật Thành gặp Mao Trạch Đông tại Bắc Kinh để duyệt và phê chuẩn
kế hoạch tấn công Nam Hàn. Mao lo lắng nhưng vì Stalin đã đồng ý nên việc họ
Kim trình bày với ông ta chẳng qua là “chuyện đã rồi”. (Sheila Miyoshi Jager
Brothers at War: The Unending Conflict in Korea, Profile Book, 2014)
Như cả thế giới đều biết, Mỹ đưa quân
phản công. Tham vọng điên cuồng “CS hóa Triều Tiên” của Kim Nhật Thành đã thất
bại và gây ra cái chết cho khoảng 3 triệu người dân Triều Tiên trên cả hai
miền.
Sau khi chiến tranh Triều Tiên ngưng
tiếng súng vào tháng 7, 1953 với 780 ngàn quân Bắc Hàn bị giết, Kim Nhật Thành
bừng tỉnh và biết giấc mộng CS hóa Triều Tiên của y là một cuộc phiêu lưu điên
cuồng. Từ đó, ngoài miệng hăm he nhưng họ Kim không còn nghĩ tới chuyện “thống
nhất đất nước” lần nữa.
Tại Nam Hàn, Tổng thống Nam Hàn Phác
Chính Hy không chủ trương “giải phóng miền Bắc” mà đặt ưu tiên vào hiện đại hóa
Nam Hàn. Con đường Nam Hàn trải qua cũng đầy những ổ gà, gai góc với tham
nhũng, ám sát nhưng họ đã vượt qua để ngày nay là một trong những cường quốc
của Á Châu.
Thứ hai, bài học Tây Đức.
Thủ tướng Konrad Adenauer của Tây Đức
tập trung nỗ lực vào việc đưa Tây Đức trở thành một cường quốc kinh tế trong
cộng đồng Châu Âu. Adenauer là một trong những lãnh đạo Châu Âu kiên quyết
chống lại sự bành trướng của LX và là một thành viên tích cực của NATO sau khi
gia nhập tổ chức này năm 1955. Việc nước Đức thống nhất năm 1990 không tốn một
viên đạn phát xuất từ tầm nhìn xa của Thủ tướng Konrad Adenauer.
Đảng CSVN thì sao?
Hai bài học đó đều diễn ra trước Hội
Nghị lần thứ 15, tháng 1-1959, của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Lao Động Việt
Nam, để quyết định “Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc và cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền nam". (Nghị quyết hội nghị Trung ương 15, Nhân
Dân, 10-03-2005)
Sách lược của giới lãnh đạo CSVN phản
ảnh mục đích CS hóa Việt Nam đã được đề ra từ 1930: “Ðảng là đội tiên phong của
vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc, đại biểu cho quyền lợi
chính và lâu dài cho cả giai cấp vô sản, lãnh đạo tranh đấu để đạt mục đích
cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.” (Các cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Báo điện tử đảng CSVN, 23/03/2020)
Vì “mục đích cuối cùng là chủ nghĩa
cộng sản” đã được đóng đinh và rỉ sét trong đầu các thế hệ lãnh đạo CSVN nên họ
không thấy những gì đang diễn ra trên thế giới, không hình dung được một miền
Bắc sẽ đói nghèo như thế nào và miền Nam sẽ chết chóc ra sao một khi chiến
tranh bùng nổ, không cân nhắc phản ứng của nước Mỹ đang dư thừa bom đạn sản
xuất trong Thế Chiến Thứ Hai nếu đảng CS đưa quân đội vào chiếm miền Nam, không
hiểu được đường lối đối ngoại cương quyết ngăn chặn vết dầu loang CS
(Containment Policy) của các Ngoại trưởng Mỹ Dean Acheson và Mỹ John Foster
Dulles, của các Tổng thống Mỹ Harry S. Truman và Dwight D. Eisenhower.
Theo con số do chính đảng CS đưa ra
năm 1995, hơn hai triệu người Việt đã chết trong cuộc chiến Việt Nam. Dù mặc áo
gì, ăn cơm gì, mang súng gì họ vẫn là người Việt Nam, vẫn là những thanh niên
lẽ ra không phải chết. Đó là chưa nói đến “một Việt Nam đánh bại đế quốc Mỹ” để
rồi dẫn đến nghèo nàn, lạc hậu, tham nhũng, mất dần biển đảo và ăn mày từng
liều thuốc như hôm nay.
Do đó, lý do VNCH không chịu bầu cử
mà đảng rao gần như mỗi ngày từ chiếc loa đầu xóm cho đến trường lý luận trung
ương chẳng qua chỉ để tuyên truyền. Thủ thuật này đã lôi kéo được nhiều người
Việt nhẹ dạ và nặng cảm tính ở cả hai miền. Nhiều trong số những nạn nhân bị
tẩy não cho đến nay vẫn không phân biệt được sự khác nhau giữa Pháp và Mỹ.
Giả sử, nếu có bầu cử để “thống nhất
đất nước” và đảng CS thua, liệu họ sẽ giải nhiệm các cấp chính trị viên và sáp
nhập vào quân đội quốc gia, giải tán bộ máy công an chìm nổi, đóng cửa các cơ
quan tuyên truyền, từ chức khỏi tất cả chức vụ điều hành đất nước?
Trừ phi mặt trời mọc ở hướng tây và
lặn ở hướng đông điều đó không bao giờ xảy ra. Do đó, tên gọi của cuộc chiến
khác nhau tùy theo quan điểm, góc nhìn, quyền lợi và mục đích, nhưng với nhân
dân miền Nam, đó chỉ là cuộc chiến tự vệ của những người Việt yêu tự do dân chủ
chống lại ý thức hệ CS độc tài xâm lược.
Như người viết đã viết trong bài
“Buổi chiều trên nghĩa địa Hàng Dương” đăng lần đầu trên talawas tháng 5, 2009:
“Máu đổ, thây rơi, nhà tan, cửa nát ở Hà Nội, Hải Phòng là điều có thật. Những
mất mát đau thương vô cùng to lớn của đồng bào miền Bắc đã chịu đựng dưới đạn
bom Mỹ là điều có thật. Căm thù, phẫn uất vì thế là những phản ứng tự nhiên.
Tuy nhiên không phải chỉ vì đế quốc Mỹ đã đơn phương xâm lược Việt Nam như các
thế hệ sinh viên học sinh đã và đang được dạy. Hơn ba mươi năm là một thời gian
đủ dài để đồng bào miền bắc, các thế hệ trẻ miền bắc có gia đình chịu đựng đau
thương bất hạnh trong chiến tranh, nhìn lại cuộc chiến một cách khách quan và
so sánh với thực tế đất nước để qua đó biết rõ những ai và học thuyết nào chính
là nguyên nhân của chiến tranh, độc tài và chậm tiến hôm nay.”
Người bình thường nhìn vào một sự
kiện qua hiện tượng nhưng người có ý thức phải tìm hiểu từ bản chất, bởi vì
không thấy rõ bản chất xâm lược của ý thức hệ CS sẽ khó có thể chọn con đường
đúng để phục hưng Việt Nam.
Trần
Trung Đạo
Người chuyển bài – HV - USA
No comments:
Post a Comment