AI
GIẾT TRUNG TÁ VÕ VÀNG ...
Lời
giới thiệu:
Tác giả, Thiếu Tá Phạm Văn Hồng xuất thân Khóa 20 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, phục vụ tại Bộ Tư Lệnh/Quân Đoàn I/Phòng 3. Ngày 16 tháng 1 năm 1974, đương sự và G. Kosh, một nhân viên của lảnh sự quán Hoa Kỳ tại Đà Nẳng có nhiệm vụ theo tàu Hải Quân VNCH ra đảo Hoàng Sa khảo sát, nghiên cứu kế hoạch thiết lập sân bay. Ba hôm sau, quân Trung cộng đánh chiếm Hoàng Sa, bắt tất cả quân nhân VNCH kể cả nhân viên của tòa lảnh sự Mỹ. Sau một tuần, Trung cộng đã thả người Mỹ vì lý do “nhân đạo”, và sau 29 ngày, các quân nhân VNCH mới được trả tự do. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Thiếu Tá Hồng K20 bị cộng phỉ giam trong trại lao động khổ sai hơn 8 năm ở Quảng Nam. Thiếu Tá Phạm Văn Hồng K20 là một trong những nhân chứng vụ cộng phỉ thảm sát Trung Tá Võ Vàng K17 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam
Khi nhắc đến danh tánh cố Trung Tá Võ Vàng,
cựu Sinh Viên Sĩ Quan khóa 17 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, có lẽ rất nhiều
chiến hữu phục vụ tại vùng I chiến thuật, nhất là các chiến hữu Biệt Động Quân
và người dân thị xã Huế, hẳn không ai xa lạ gì với tên tuổi của anh. Lý do dễ
hiểu là vì trong biến cố Mậu Thân 1968, với trách nhiệm tái chiếm các mục tiêu
từ Vĩ Dạ, Dương Nổ, Bãi Dâu và cuối cùng là Gia Hội, đơn vị anh đã đạt chiến
thắng lẫy lừng và thanh toán mục tiêu trước giờ ấn định, đến nỗi người dân cố
đô Huế đã hết sức cảm phục và thỉnh cầu vị Tư Lệnh Vùng I Chiến Thuật lưu giữ
Tiểu Đoàn 21 Biệt Động Quân mà anh là Tiểu Đoàn Trưởng ở lại thị xã để dân chúng
được yên tâm sinh sống hầu tái thiết, an cư lạc nghiệp. Ý dân là ý trời, tiểu
đoàn cuả anh phải “trấn thủ lưu đồn” tại vùng sông Hương, núi Ngự suốt sáu
tháng mới được “buông tha”, lên đường chiến đấu tại những chiến trường khác
cũng đang rất cần sức chiến đấu cuả tiểu đoàn anh.
Tên
tuổi cuả anh đã bị bọn quỉ đỏ ghi vào sổ đen từ dạo ấy.
Sau
này với chức vụ Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 5 thuộc Sư Đoàn 2 Bộ Binh, anh lại
tạo một chiến thắng lẫy lừng khác tại vùng cực Nam tỉnh Quảng Ngãi, đó là mặt
trận Bình Đê, Sa Huỳnh: Trong cuộc thư hùng nẩy lửa này, Trung Đoàn 10 địa
phương cộng phỉ gần như bị xóa sổ hoàn toàn. Và đây chính là nguyên nhân sâu xa
dẫn đến cái chết đầy oan khiên và đau đớn của anh sau này.
Người
viết bài tường thuật này có cơ duyên biết khá nhiều về Trung Tá Võ Vàng, nhất
là sau khi tên dã thú bắn anh 7 phát đạn từ sau ra trước, người viết lại là
người đầu tiên khiêng thi thể của anh từ suối lên mặt đường và làm biên bản về
cái chết đau thương này ….
Sau
ngày 29 tháng 3 năm 1975, ngày thành phố Đà Nẵng bỏ ngỏ, bọn cán ngố tiến vào
thị xã, người dân xứ sông Hàn mới lần đầu tiên nghe được từ ngữ “Uỷ Ban Quân
Quản”. Đến ngày 5 tháng 4 năm 1975, những quân nhân không còn đơn vị, từ sáng
sớm đã nghe một bản thông cáo của Uỷ Ban Quân Quản thành phố đọc đi đọc lại
trên đài phát thanh Đà Nẵng đại khái nói rằng: ” Tất cả các sĩ quan Ngụy, không
chậm trễ, hãy tập họp về số 2 đường Đống Đa, Đà Nẳng để nghe nói chuyện về tình
hình đất nước.”.
Đây
là cú lừa đầu tiên mà tất cả quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, vốn chân
thật chưa hề bao giờ ngờ được sự trí trá xảo quỵêt của bọn lưu manh, đã vấp
phải. Bị thôi thúc bởi bản thông cáo, tất cả các sĩ quan lũ lượt kéo nhau đến
địa điểm nói trên để tìm hiểu xem hiện tình đất nước biến chuyển như thế nào.
Và thế là, tất cả những người chân thật ngay thẳng, đã tự động…. chui vào rọ!
Có vào mà không có ra!
Cuộc
đời tù “cải tạo” của những quân nhân còn kẹt lại khắp các vùng xứ Quảng bắt đầu
từ đây. Chúng tôi bị đưa lên trại Kỳ Sơn thuộc tỉnh Quảng Tín. Nơi đây chỉ là
một vùng rừng núi hoang vu, cạnh một suối nước chảy quanh co dưới chân khu mỏ
vàng Bồng Miêu. Bây giờ danh nghĩa của chúng tôi bị gọi là những người “tù cải
tạo”. Ngày ngày chúng tôi ăn không đủ no, mặc không đủ ấm nhưng phải lên rừng
chặt cây, cắt tranh, rồi chính mình cùng nhau dựng lên những căn nhà để tự nhốt
mình.
Mới
đầu, anh Võ Vàng và chúng tôi ở cùng khối 2 thuộc trại 1 Kỳ Sơn nhưng khác nhà.
Anh ở nhà 6 còn tôi ở nhà 9. Hai nhà này hầu hết là sĩ quan cấp tá, và thường
đi lao động chung với nhau. Sau một thời gian ngắn, qua sự xào xáo “biên chế”
lại, anh Vàng về ở cùng nhà với chúng tôi.
Thực
sự thì khi anh còn ở Biệt Động Quân, tôi đang ở Tiểu Đoàn 3/1 thuộc Sư Đoàn 1
Bộ Binh, tôi chỉ nghe danh anh chứ chưa hề biết mặt. Mãi cho đến sau này, khi
anh rời binh chủng Biệt Động Quân về ngồi tạm tại Phòng 3 Quân đoàn I để chuẩn
bị theo học khóa tham mưu tại Đà Lạt tôi mới hân hạnh được biết anh, vì tôi đã
về Phòng 3/QĐI từ trước.
Sau
khi tốt nghiệp khóa học, Bộ Tổng Tham Mưu/Tổng Cục Quân Huấn chỉ định Trung Tá
Võ Vàng K17 về phục vụ tại Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam do những chiến công
mà anh đã đạt được cùng những kinh nghiệm chiến trường vô cùng quý báu mà anh
đã thu thập qua những trận ác chiến với cộng quân. Những kinh nghiệm này cần
được gìn giữ, lưu truyền cho các đàn em của anh. Trong thời gian phục vụ tại
Trường Mẹ, Trung Tá Võ Vàng K17 đã đảm nhận chức vụ trưởng khoa chiến thuật rồi
trưởng khối huấn luyện quân sự.
Với
chức năng của một Niên Trưởng, Anh đã đem tâm huyết trao hết kinh nghiệm đầy
máu và nước mắt cho đàn em của mình đang còn miệt mài kinh sử dưới mái Trường
Mẹ. Đến tháng 3 năm 1972, tình hình chiến sự vô cùng sôi động, Trung Tá Võ Vàng
K17 muốn được trở lại chiến trường xưa, đơn vị củ… để cùng đồng đội chia xẻ
hiểm nguy, mặc dầu chị Võ Vàng không vui! Anh đã đạt được ước nguyện của người
trai Võ Bị.
Đến
bây giờ anh lại tái ngộ với tôi ở một nơi, trong một cảnh ngộ thật nghiệt ngã
mà cả anh cũng như tôi, chẳng ai mong ước: Trại 1 “Cải Tạo” Kỳ Sơn.
Mỗi
ngày anh cùng tôi rong ruổi trong công tác đốn củi, cắt tranh, làm rẫy, trồng
sắn, cuốc ruộng, cấy lúa v.v…. Thôi thì đủ thứ tạp dịch không tên, kể sao cho
xiết.
Rồi
ngày 11 tháng 4 năm 1976, ngày báo hiệu đại hoạ đã tới. Hôm đó là chủ nhật, anh
Võ Vàng có tên gọi trong danh sách thăm nuôi. Người thăm anh không ai khác hơn
là chị Võ Vàng.
Kịch
bản đã được soạn thảo từ lâu, mãi đến hôm nay mới là thời điểm cho bọn khát máu
thực hiện. Chúng chuẩn bị tạo yếu tố tâm lý rất ác độc, nhưng hoàn toàn là bịa
đặt, về con người anh Võ Vàng, bằng cách là trong những lần sinh hoạt của toàn
trại trên hội trường, tên Chính Uỷ Trung Đoàn đến nói chuyện với tù nhân đã
ngược ngạo, láo khoét tuyên bố rằng:
– Tên
Trung Tá Võ Vàng là một tên mang rất nhiều tội ác với nhân dân và chiến sĩ cách
mạng. Tên này độc ác đến nỗi mỗi khi sát hại một chiến sĩ cách mạng, hắn đều
cắt tai rồi xâu thành chuỗi đeo tòng teng trước ngực, đi nghênh ngang trong
thành phố Đà Nẵng.
Thật
rõ ràng là chỉ những người cộng sản chuyên nghề lừa đảo mới tuyên bố được những
lời gian trá trắng trợn như thế. Thử hỏi vào thời điểm đó, thành phố Đà Nẵng có
khoảng tám trăm ngàn dân, liệu có một người dân nào nhìn thấy anh Võ Vàng đeo
tai Việt cộng trước ngực, đi nghênh ngang trong thành phố?
Song
song với sự chuẩn bị yếu tố tâm lý, chúng đã tiên liệu thời gian anh Vàng sẽ có
thăm nuôi, vì qui chế của tổng trại Kỳ Sơn lúc đó là 3 tháng được thăm một lần.
Một tên quân báo từ quân khu 5 đã xuống chờ sẵn tại trại 1. Đến ngày anh được
thăm nuôi, chúng cử một cảnh vệ tên Bốn, là một tên có máu lạnh, hướng dẫn bốn
năm người trong danh sách ra khu thăm nuôi gặp gia đình. Sau ít chục phút gặp
người thân, tên Bốn ra lệnh cho mấy anh em chuẩn bị về trại. Anh Vàng cũng cùng
với mấy anh em khác sẵn sàng trở lại trại, thì tên quân báo nói trên đã chờ sẵn
tại khu thăm nuôi, lấy uy quyền của một cấp lớn hơn cho phép ở lại với gia đình
thêm một thời gian.
Tên
Bốn lại hô tất cả mọi người tập họp đầy đủ để trở lại trại. Anh Vàng thi hành
lệnh, tên quân báo này lại một lần nữa ra lệnh cho anh Vàng được ở lại. Dĩ
nhiên là lẽ thường tình được một cấp lớn hơn cho phép, lại thêm yếu tố tình cảm
gia đình thì đương nhiên anh Vàng nghiêng về phía ở lại. Tên cảnh vệ đành tức
tối dẫn toán được thăm nuôi trở về trại, trong đó không có anh Võ Vàng. Đây là
một yếu tố tâm lý vô cùng thâm độc, chúng cố tình kích động vào sự tự ái của
tên Bốn hầu gây lòng hận thù với tên vệ binh này, để chúng xử dụng tên này một
cách đắc lực và hiệu quả trong chủ đích sát hại anh trong vài ngày sau.
Dường
như linh tính được báo trước nên tuy được thăm nuôi và lại được hưởng thời
lượng gấp đôi, gấp ba những anh em khác, nhưng khi về trại mặt anh lại lộ rõ vẻ
không vui như lẽ thường tình. Và quả đúng, đến chiều anh bị gọi lên ban chỉ huy
trại để nhận lệnh.
Xin
được tản mạn ra ngoài đề, để mô tả căn nhà chúng tôi ở. Cũng giống như tất cả
các nhà khác trong trại là có bốn sạp ở bốn góc, được ghép bằng những cây rừng
do chính những người tù đi chặt về ghép lại với nhau thành bốn sạp để nằm. Bốn
sạp bốn góc đã tạo thành chữ thập dùng làm lối đi ở giữa. Tôi may mắn được nằm
ngay trung tâm chữ thập, còn anh Vàng thì ngược lại, xuyên tâm đối với tôi,
nghĩa là anh nằm tuốt phía ngoài bìa. Mô tả như vậy để quí độc giả hiểu được
rằng chỗ tôi nằm là đắc địa, vì tại tâm của chữ thập có đào một cái hố để tối
đến đốt lửa, hun khói để vừa đuổi muỗi, vừa sưởi ấm cho bớt lạnh. Củi đốt thì
khỏi lo, sống ở rừng, mỗi khi hết giờ lao động, mỗi người tù đều phải vác về
một cây củi để dùng cho chính mình vào buổi tối.
Chính
vì vị trí đắc địa này mà mỗi tối anh Vàng thường lân la đến chỗ tôi nằm để hút
thuốc lào với anh Phạm Ngọc Bảo. Anh Bảo là người có quan hệ mật thiết với anh
Vàng, vì hai anh có nhà ở cạnh nhau trong vùng bãi biển Thanh Bình, Đà Nẵng.
Hơn nữa, anh Bảo thuộc khóa 12 còn anh Vàng khóa 17 Võ Bị. Phần tôi là em út
của cả hai anh vì tôi thuộc khóa 20. Vì tình Võ Bị này mà ba anh em chúng tôi
rất thương yêu và tuyệt đối tin tưởng nhau. Yếu tố tin tưởng này rất quan
trọng, vì ở trong tù một sự kiện vô cùng ô nhục là tình trạng “ăng ten”, nên
không ai dám hở miệng tâm sự với người khác. Ba anh em chúng tôi thì không phải
e ngại về yếu tố này.
Và
rồi, như thường lệ, ngay buổi tối hôm thăm nuôi định mệnh này, anh đã kể hết
một cách tường tận về chuyện được thăm nuôi thêm giờ, gây tức tối cho tên vệ
binh và trại bắt anh phải làm kiểm điểm, vì đã cưỡng lệnh cảnh vệ. Anh hỏi ý
kiến tôi và anh Bảo xem nên viết kiểm điểm như thế nào. Tôi đã rất chân tình
góp ý với anh là chỉ viết thật ngắn gọn rằng: “Khi tôi được anh cảnh vệ ra lệnh
về lại trại, tôi đã nghiêm chỉnh thi hành và chuẩn bị trở về, thì cán bộ của
quân khu đã có nhã ý cố giữ tôi được ở lại với gia đình thêm ít phút nữa. Tôi
cam đoan đây là lời khai sự thật của tôi v. v…”
Sáng
thứ hai, ngày 12 tháng 4 năm 1976, anh viết xong bản kiểm điểm ngắn gọn như tôi
đã góp ý và nộp cho ban giám đốc trại, rồi trở về tiếp tục đi lao động cùng
chúng tôi.
Buổi
tối, anh lại đến chỗ tôi nằm và hút thuốc cùng anh Bảo, nhưng tâm trạng của anh
vô cùng bồn chồn và lo lắng. Dường như tử thần đã báo trước cho anh thời điểm
chấm dứt cuộc sống sắp tới. Tôi và anh Bảo trấn an anh cách nào cũng không làm
anh giảm được sự bồn chồn lo lắng ấy.
NGÀY
ĐỊNH MỆNH
Hôm
nay là thứ Ba, ngày 13 tháng 4 năm 1976, như thường lệ, nhà chúng tôi được phân
công đi phát rẫy trên đồng Cò Bay, lối đi lên vùng mỏ vàng Bồng Miêu và do
chính tên Bốn dẫn đi. Khi vài anh có nhiệm vụ trực trong nhà, ra nhà kho để
nhận dụng cụ phát rẫy gồm dao tông và rựa về, anh Vàng đã nhận một con dao tông
giống như tôi. Và dường như muốn đè nén nỗi lo âu, anh luôn luôn đi cạnh tôi và
trò chuyện cho khuây khoả… Đến khi vào khu vực phát rẫy, những người cầm rựa
thì đốn những cây tương đối nhỏ, còn những người cầm dao tông như anh và tôi
thì phải hạ những cây có đường kính lớn hơn. Gặp những cây quá lớn cành lá xum
xuê thì hai anh em chúng tôi cùng đốn một cây.
Bỗng
nhiên khoảng 10 giờ sáng, chúng tôi đã tiến lên cao được khoảng mươi thước cách
đường mòn, thì từ phía dưới đường, tên Bốn nói với lên trên:
–Anh
trưởng toán đâu, cho tôi mười người cầm dao tông đi theo tôi lên phía kia đốn
những cây lớn hơn.
Lúc
đó anh nhà trưởng đi kiếm những người cầm dao tông. Anh Vàng nói với tôi:
–Ê
mày, thôi tụi mình xuống đi, nó đang kiếm người cầm dao tông kìa.
–Kệ
cha nó, mình cứ lơ đi, coi như không nghe thấy. Tôi trả lời.
Chỉ
một lát sau đó, tên Bốn đứng ngay sau lưng chúng tôi dưới đường mòn, vừa nói
vừa chỉ thẳng vào anh Vàng:
– Anh
kia! (Làm như tên này không biết tên anh Vàng) Xuống đây đi đốn chỗ khác.
Thế
là anh Vàng rời tôi đi xuống, trong khi tôi vẫn đứng nguyên tại chỗ mà tên này
không gọi tôi. Đấy là giây phút cuối cùng, sau đó tôi vĩnh viễn không bao giờ
còn đứng cạnh anh nữa.
Anh
mới rời tôi khoảng vài chục phút thì một loạt đạn chát chúa vang lên. Tôi chẳng
hiểu chuyện gì xảy ra nhưng vẫn nhủ trong lòng chắc có chuyện chẳng lành….
Mãi
cho đến giờ nghỉ trưa, tôi tụt xuống đường mòn để chuẩn bị ăn trưa thì gặp ngay
anh Lê Văn Lộc, Thiếu Tá Cảnh Sát, nguyên Trưởng Khối CTCT, ty Cảnh Sát Thừa
Thiên – Huế, hôm nay làm nhiệm vụ anh nuôi, nấu nước cho anh em uống. Thấy tôi,
mặt anh chảy dài, mắt đỏ ngầu, ứa nưóc mắt và nói ngay với tôi rằng:
– Anh
Vàng chết rồi!
Tôi
hết sức bàng hoàng, tay chân bủn rủn. Lần lần tôi mới vỡ lẽ. Số là, sau khi tên
Bốn tách mười người đi đốn cây ở chỗ khác, y đã dẫn toán này đi xa nơi cũ, chỉ
chừng vài ba chục mét về hướng đồng Cò Bay, gần cây cầu lủng, điạ danh “cây cầu
lủng” anh em trại 1 Kỳ Sơn ai cũng biết, tên Bốn chỉ cho mọi người lên đó mà
đốn. Khu vực này cây cối cũng có lớn, nhỏ, có hơn chỗ cũ gì đâu, mục đích chính
chỉ là y muốn tách rời mười người này ra xa khỏi toàn khối 2 của chúng tôi. Sau
đó, Bốn lại lấy hai người trong số mười người dao tông này, để đi đốn đót về
làm chổi cho trại! Màn trình diễn này quá tồi. Nếu đốn đót thì phải gọi những
người cầm rựa mới đúng vì dễ khoèo, dễ phứt, chứ sao lại lấy người cầm dao
tông?
Hai
người mà Bốn chỉ định là anh Võ Vàng và anh Nguyễn Văn Bá, Trung Tá Thủ Khoa
khóa 13 Võ Bị….
Rõ
ràng quá! Ý đồ của Bốn là lấy anh Vàng ra khỏi đám đông để dễ dàng động thủ,
che dấu dã tâm đầy thú tính của mình. Khi hai anh vừa rời toán được mấy chục
thước, thì Bốn chỉ tay nói anh Vàng xuống suối mà tìm đót còn anh Bá thì đi
thẳng qua bên kia cầu lủng, chứ hai người cùng đi với nhau thì đót đâu cho cả
hai người cùng đốn!
Anh
Vàng vừa xuống hướng suối không đầy mười thước, thì một tràng đạn AK nổ dòn.
Mấy chục con người mang thân tù tội đang cặm cụi đốn cây, đều ngừng tay. Linh
tính cho biết là chắc chắn có chuyện gì bất thường.
Phần
tôi, tôi biết được chi tiết vừa trình bày là do anh Bá kể lại. Và rồi, tiến xa
hơn một chút, tôi càng được tường tận hơn khi tên Bốn cất tiếng hỏi:
– Ai
là nhà phó trong toán này?
Anh
em chỉ vào tôi, trong tù ai cũng biết nhà phó là người chịu trách nhiệm về
“cơm, áo, gạo, tiền.”
Bốn
đã nhìn tôi và chỉ xuống hướng suối để khiêng xác anh Vàng lên. Tôi và anh Trần
Hữu Cảnh, Thiếu tá Phòng 2 Quân Đoàn I, cùng đi xuống suối. Vừa rẽ khỏi đường
mòn chừng mươi thước, thì chứng kiến cảnh đau lòng đến xé ruột diễn ra trước
mắt mình. Anh Vàng nằm úp mặt xuống dòng suối cạn. Từ thắt lưng lên đầu thì
ướt, phần còn lại từ lưng xuống chân thì vẫn khô. Anh nằm úp mặt dưới suối.
Hai
anh em, tôi và Cảnh lật xác anh lên, chúng tôi muốn oà khóc vì thấy những phát
đạn quá tàn bạo. Tôi đếm được tất cả bẩy vết đạn đều bắn từ sau ra trước, mà
trong đó hình ảnh của hai phát đạn xuyên ra phía trước thân thể anh, đã ám ảnh,
đã hằn sâu, trong tâm trí tôi cho đến suốt đời, vì hai phát này đã kết liễu đời
anh, một phát từ sau lưng bắn toác ra phía trước ngực, hơi chếch về trái, có
nghĩa là anh đã bị vận tốc xoáy của viên đạn phá tan tim và lồng ngực, phát thứ
hai từ hàm phải xuyên qua cửa miệng trái, vỡ hết hàm răng khiến cho miệng anh
không còn khép lại được nữa. Năm phát còn lại thì rải rác ở cánh tay, mông và
ống chân…
Khiêng
thi thể của anh lên mặt đường, đặt gần nơi anh Lộc làm anh nuôi, lúc này tôi
mới lục trong túi của anh lấy ví, mở ra, thấy trong đó có tấm hình vợ con và số
tiền 200 đồng. Một nhẫn vàng khoảng hai chỉ trên ngón tay và cổ tay còn đeo
chiếc đồng hồ Longine. Xin mở ngoặc là thời điểm này do bên quân đội quản lý,
nên các tù nhân vẫn còn được giữ các tư trang. Chỉ sau này, khi bọn bò vàng
(công an) quản lý thì tư trang và tiền bạc mới bị ký gửi.
Khi
làm biên bản, một sự lưu manh, xảo trá chuyên nghiệp của bọn cộng sản lại được
thể hiện: cụ thể là chiếc nhẫn vàng thì chúng buộc tôi phải viết lại là chiếc
nhẫn màu vàng và không ghi rõ trọng lượng! Sau này khi sang Hoa Kỳ, duyên may
tôi được gặp chị Võ Vàng, tôi mới vỡ lẽ là họ trả lại cho chị chiếc đồng hồ
hiệu Seiko. Quá lạ! Đồng hồ Longine đã bị “cải tạo” thành Seiko.
Sau khi
làm biên bản, thi hài anh Vàng vẫn được để nằm tại chỗ cho đến khi ăn cơm trưa
xong, một số anh em mới được phân công khiêng thi hài của anh về trại. Những
anh này gồm anh Nguyễn Văn Tố, Trung tá nguyên Tỉnh Trưởng Phú Yên, anh Nguyễn
Văn Chước, Trung Tá, nguyên gốc Biệt Động Quân cùng thời với anh Vàng, anh Đ H
X, Thiếu Tá thuộc Thiết Đoàn M48, Quảng Trị, và anh Trần Hữu Cảnh, Thiếu tá P
2/QĐI.
Một
chuyện lạ rất huyền bí không chứng minh được do chính anh Trần Hữu Cảnh kể lại
cho tôi nghe, đó là khi về đến gần cổng trại, phía bên tay phải là một căn nhà
nhỏ chúng tôi thường gọi là chuồng cu, dùng để nhốt những anh bị kỷ luật, cảnh
vệ đã chỉ cho toán khiêng xác anh Vàng vào trong đó, thì bỗng nhiên xác anh
nặng trĩu hai người khiêng bị trì hẳn xuống, không cách gì khiêng nổi. Anh Cảnh
chợt nghĩ ra rằng đây là nhà kỷ luật chắc anh Vàng nhất định không chịu vào.
Anh Cảnh bèn khấn vái với anh Vàng rằng:
– Xin
anh hãy thông cảm cho chúng tôi được khiêng anh vào, vì đây là lệnh của trại
bắt tụi tôi phải đưa anh vô, chứ không phải tụi tôi muốn như vậy.
Sau
nhiều lời khấn vái thì xác anh bỗng nhẹ hẳn đi để anh em khiêng vô.
Chưa
hết, sau này tôi lại được một vài anh em ở ngoài Tổng trại kể lại rằng tên Bốn
sau này dường như bị điên điên, khùng khùng, suốt ngày cứ lảm nhảm vừa đi vừa
nói:
– Tôi
đâu có muốn giết anh! Tôi đâu có muốn giết anh!
Việc
này tôi chỉ nghe kể lại chứ không được chứng kiến nên không hiểu thực hư ra
sao, xin chỉ viết lại với sự dè dặt tối đa.
Về
việc mai táng cho anh thì đến xế chiều, khi đào huyệt chôn anh lại gặp nhiều
rắc rối. Những người đào huyệt đang đào nửa chừng thì người trưởng trại tên
Nhất đi họp ngoài Tổng trại về, trông thấy bèn cho biết là chôn ở đây không
được, vì vị trí này, sau này người ta sẽ phóng đường để cho xe cộ có thể chạy
được lên mỏ vàng Bồng Miêu. Mọi người phải dừng tay, lấp hố, đi đào huyệt khác.
Đến vị trí thứ hai mới đào sâu được vài chục phân, thì gặp phải đá tảng, không
cách gì đào nổi, nên lại phải đi kiếm chỗ khác. Huyệt thứ ba ở khá cao trên
triền núi. Lúc này đã xẩm tối toán chôn cất mới hoàn tất việc mai táng cho anh.
Kiểm
chứng lại việc chúng muốn phục thù, cướp mạng sống của anh, mới thấy rõ là
chúng chuẩn bị một kế hoạch rất tỉ mỉ. Từ việc cử một tên cán bộ quân báo của
Quân Khu 5 xuống chờ sẵn, đợi dịp anh Vàng được thăm nuôi, chọn một tên vệ binh
có máu lạnh dẫn anh đi, gây cho hắn lòng căm phẫn với anh Vàng. Sau ngày chủ
nhật được thăm nuôi, ngày thứ hai bắt nộp bản kiểm điểm, rồi đánh giá là lời
khai tránh trớ, quanh co, ngoan cố không nhận lỗi, ngày thứ ba cho đi lao động,
cố ý cắt cử tên vệ binh Bốn hướng dẫn đi phát rẫy, rồi xuống tay hạ thủ và kết
quả đã đúng như dự tính.
Thế
nhưng nói như thế không có nghĩa là chúng không để lộ ra những màn diễn xuất
quá tồi. Ngay sau khi bắn anh Vàng, tên Bốn đã xuống suối nhúng nước cho quần
ướt đến đầu gối rồi thất thểu vác súng về trại, biết bao nhiêu cặp mắt anh em
tù chúng tôi thấy khẩu súng của y còn nguyên vẹn, nhưng đến xế trưa, khi bọn
cán bộ từ trung đoàn đến hiện trường làm biên bản thì báng súng lại có vết
chém! Biên bản ghi rằng tên Vàng phản động, tính chém vệ binh để cướp súng
khiến vệ binh buộc lòng phải bắn để tự vệ, nhưng lố bịch thay vết đạn bắn lại
toàn từ phía sau ra phía trước! Về điểm này xin được nói thêm là nhà 9 chúng
tôi, tối tối thường có một y tá người Bắc, thường lân la xuống trò chuyện và
hút thuốc lào với anh em chúng tôi. Ngay buổi tối hôm đó, như thường lệ, anh y
tá này lại xuống, vừa bước vào nhà anh đã buột miệng nói ngay:
–
Đ.m. chúng nó, chúng nó đang tâm bắn một người vô tội, vết đạn rõ ràng bắn từ
sau ra trước mà bảo người ta là phản động, cướp súng của vệ binh! Ngày mai ghi
vào biên bản xác minh, bố mày sẽ ghi rõ ràng là vết đạn bắn từ sau ra trước.
Và
tiếc thay, chỉ vài ngày sau khi mộc mạc thốt ra những lời kể trên, người y tá
còn chút nhân tính này không thấy xuất hiện tại nhà 9 chúng tôi nữa.
Cướp
đi mạng sống của anh Vàng, chúng vẫn chưa thỏa mãn được lòng hận thù của chúng.
Chị Vàng sống tại Đà Nẵng cũng không được yên thân. Sau này khi được gặp chị,
tôi mới được biết, chị bị cắt hết nguồn sống của mẹ con bằng cách không cho chị
được tiếp tục dạy học tại trường trung học Phan Chu Trinh, Đà Nẵng nữa. Đồng
thời còn cô lập gia đình chị bằng cách phao tin Võ Vàng là một tên phản động
khát máu, mặc dầu được đưa vào trại cải tạo để giúp hắn trở nên người lương
thiện nhưng vẫn giữ bản chất cũ, đã cố tình cầm dao chém cảnh vệ để cướp súng,
nên đã bị đền tội. Thế là tất cả bà con chòm xóm, ngay cả người thân trong gia
đình cũng phải xa lánh mẹ con chị, vì sợ bị liên lụy, ấy là chưa kể nhiều người
quá ngây thơ khờ dại, tin lời bịa đặt, đã chê trách anh Vàng quá dại dột, dùng
dao mà đọ sức với súng đạn thì làm sao mà thắng nổi! Anh hùng rơm!
Mãi
sau này, trong một dịp nhà báo Huy Phương phụ trách chương trình “Huynh Đệ Chi
Binh” của đài SBTN có nhã ý tìm gặp tôi và muốn được tôi kể lại chuyện Trung Tá
Võ Vàng bị thảm sát trong tù, tôi mới có dịp tường thuật khá đầy đủ cùng khán
thính giả của đài. Chị Vàng đã xem được cuộc phỏng vấn này và chị đã phần nào
được an ủi:
– Xem
như anh Vàng đã được rửa mặt. (Rửa mặt ở đây có nghĩa là rửa nhục, lấy lại danh
dự).
Chỉ
tiếc một điều là sao lại có một số người quá nhẹ dạ cả tin, nhất là tin lời
tuyên truyền của cộng sản. Có lẽ họ chưa được nghe lời chỉ giáo của Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu.
Mặt
khác, mới thời gian ngắn trước đây tôi lại được dịp đọc một bài viết của anh
Đ.H.X, cũng viết về cái chết của anh Vàng. Với anh Đ.H.X, tôi cũng biết khá
nhiều về anh ngay từ khi mới nhập trại. Kẹt một nỗi là nay anh vẫn còn ở Việt
Nam, bởi một lý do tôi không tiện nói ra vì sẽ rất có hại cho anh trong cảnh
ngộ quá ngặt nghèo này. Đọc bài viết của anh, tôi vô cùng cảm phục cái tâm của
anh, vì sau khi chứng kiến cái chết của anh Vàng, phải khiêng anh về trại, mai
táng cho anh, anh đã nguyện trong tâm rằng sẽ kể lại đầy đủ cái chết đau thương
này, thì anh mới yên lòng trước khi nhắm mắt. Chỉ tiếc là hoàn cảnh của anh vẫn
còn trong tình trạng cá chậu chim lồng, nên chưa nói hết được những gì anh muốn
nói. Vả lại, anh mới chỉ viết được phần anh chứng kiến kể từ đoạn thi hài anh
Vàng được khiêng về trại và anh bị buộc phải làm biên bản sai sự thực, trái hẳn
với những gì anh được chứng kiến rồi tiếp theo phải ký vào biên bản trước họng
súng.
Tựu
trung lại cái chết của anh Võ Vàng tính đến nay, năm 2017, đã trôi qua hơn bốn
thập niên, nhưng hình ảnh quá đau thương tàn bạo, đối với người được chứng kiến
tận mắt như chúng tôi lúc nào cũng vẫn còn hiện rõ mồn một…!
Nếu
được đọc lịch sử về cuộc nội chiến Nam-Bắc của Hoa Kỳ, sự ứng xử của đoàn Bắc
Quân chiến thắng với đội Nam Quân chiến bại hết sức mã thượng, danh dự của kẻ
chiến bại vẫn được tôn trọng, hoặc gần hơn nữa, sự kiện bức tường Bá Linh sụp
đổ, người Tây Đức cũng tiếp đón người Đông Đức vô cùng quân tử, không một chút
hận thù, mà có ai đó mơ mộng rằng nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
cũng đối xử nhân đạo, tử tế với Việt Nam Cộng Hoà thì quả là người đó đã mắc
bệnh… hoang tưởng!
Mặt
khác, cuộc cải cách ruộng đất còn đó, vụ án Nhân Văn Giai Phẩm còn đó, và mới
đây nhất làn sóng đỏ tràn ngập miền Nam còn đó, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975,
các trại tù khổ sai, nhục hình mang danh “cải tạo” mọc lên như nấm gặp mưa,
cách đối xử với người tù vô cùng dã man, ác độc, mà vụ sát hại anh Võ Vàng là
một điển hình, thế mà lũ người Xạo – Hết – Chỗ – Nói vẫn lải nhải kêu gọi xóa
bỏ hận thù, hòa hợp hòa giải dân tộc thì quả là chúng đang bị chứng…mộng du!
California,
ngày 23 tháng 9 năm 2017.
Phạm
Văn Hồng
No comments:
Post a Comment