Đọc hai bài
viết từ trong nước này, có thể sẽ cho người ta có thêm một cái nhìn khác về sự
suy nghĩ của tác giả về cuộc chiến xâm lăng miền Nam của Cộng Sản Bắc Việt.
Đồng ý, cảm thông hay không để tùy người đọc nhận xét.
304Đen
Hình ảnh hai người lính của hai
chiến tuyến
Họ là hai người lính ở
hai bên chiến tuyến. Một người là bộ đội miền Bắc, người kia là lính
thủy quân lục chiến của miền Nam.
Trong một buổi chiều tạm
yên tiếng súng, họ cùng choàng vai nhau chụp chung một bức hình kỷ
niệm.
Khoảnh khắc này được ông
Chu Chí Thành, phóng viên ảnh của Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN), ghi
lại vào thời điểm tháng 4-1973. Hơn 40 năm sau, tác giả bức ảnh đã
cất công đi tìm lại nhân vật của mình...
Ông Chu Chí Thành nay đã ngoài tuổi thất tuần, vẫn còn rất minh
mẫn. Trong ngôi nhà có phần cũ kỹ của ông ở một con hẻm trên đường
Minh Khai (Hà Nội), rất nhiều bức ảnh về cuộc chiến tranh giữa hai
miền Nam - Bắc được ông trưng bày.
Nằm ngay ở vị trí trang trọng nhất trong phòng riêng của ông là
bức ảnh được phóng khá to về hai người lính khoác vai nhau - một
người mặc quân phục bộ đội giải phóng, người còn lại mặc quân phục
thủy quân lục chiến của quân đội Việt Nam cộng hòa. Sau lưng hai người
là trảng cát rộng của vùng giới tuyến trải dài hơn 2km.
Ông Chu Chí Thành trầm ngâm một lúc lâu như để lục lại ký ức
về khoảnh khắc này hơn 40 năm về trước. “Lúc đó, tôi cùng anh Trần
Mai Hưởng, cũng là phóng viên của TTXVN, đến chốt Long Quang. Thật bất
ngờ về tất cả những gì đang diễn ra ở đây” - ông Thành nói.
Đó là thời điểm tháng 4-1973, tức chỉ khoảng hơn một tháng sau
ngày hiệp định Paris được ký kết. Chiến sự được tạm dừng ở vùng
ranh giới hai miền. Ông Thành vẫn nhớ rất rõ thời điểm ông đến chốt
Long Quang, ở hai bên ranh giới vẫn chĩa súng về phía nhau.
Tuy nhiên, đến buổi chiều thì mọi chuyện hoàn toàn thay đổi.
Một nhóm bộ đội miền Bắc ra vẫy tay gọi í ới vào chốt của quân
đội miền Nam ở bên kia ranh giới, mời mấy anh em qua bên này uống nước
chè xanh.
“Tôi cứ ngỡ là chuyện đùa. Nhưng mấy phút sau một nhóm bốn năm
người lính cộng hòa kéo dây ranh giới để qua chốt của quân giải
phóng” - ông Thành kể chậm rãi.
Hai bên bắt tay, chia nhau chén nước chè xanh, hút chung điếu
thuốc lá Điện Biên và cùng trò chuyện cười đùa. Những người lính
phía miền Nam nói giọng miền Nam cũng mang sang một chai rượu nếp đen
làm quà cho bộ đội miền Bắc.
Một anh lính thủy quân lục chiến thấy ông Chu Chí Thành cầm
máy ảnh nên gọi: “Nhà báo ơi, chụp cho tôi với anh bộ đội giải phóng
tấm hình kỷ niệm”.
Nói rồi, hai người lính đến khoác vai nhau tươi cười hồn nhiên.
Bấm xong mấy bức hình, ông Thành đứng trân người đến mức quên mất
chuyện hỏi tên tuổi của hai người lính.
“Cách đó mấy cây số về phía nam súng vẫn đang nổ, nhưng tại
điểm ranh giới này họ nói chuyện với nhau rôm rả, không giống những
người lính ở hai bên chiến tuyến. Nhìn cái cách mà hai người lính
ấy choàng tay nhau, tôi biết rằng ngày đất nước thống nhất đã sắp
đến” - ông Thành xúc động.
Ông Thành ở vùng giới tuyến giai đoạn này hơn ba tháng mới về
Hà Nội. Từ lúc chụp bức ảnh tại chốt Long Quang cho đến khi về rửa
phim, tráng ảnh xong, ông mới sững người vì đã quên hỏi tên của hai người
lính đó.
Tấm ảnh được ông giấu kỹ cho đến năm 2007 mới công bố. Ông đặt tên
cho tấm ảnh là Hai người lính. Dù ảnh đã có tên, nhưng ông Thành nói
vẫn cứ luôn canh cánh trong lòng một nỗi niềm. Ông thấy mình như còn
mắc nợ vì cái sự “quên” đáng trách đó nên quyết đi tìm thông tin về
hai người lính.
Ông mang tấm ảnh tìm đến những người bạn từng chiến đấu tại
chiến trường thành cổ Quảng Trị giai đoạn từ 1972-1973 để hỏi. Hết
người này đến người khác đều lắc đầu. “Ai cũng nói chiến tranh bom
đạn ác liệt, chỉ những người cùng tiểu đội mới biết nhau. Có người
cùng đơn vị chưa kịp hỏi tên nhau đã hi sinh”.
Cách đây mấy năm, ông có quen một nữ phóng viên, ông cũng đưa tấm
ảnh cho cô này nhờ đưa lên mạng Internet để “may có người biết”.
Tính đến khi chúng tôi tìm gặp ông, đã hơn 40 năm sau khoảnh
khắc ấy và cũng đã hơn chục năm ông tìm kiếm, nhưng vẫn vô vọng.
Gặp chúng tôi, ông cũng không quên gửi gắm nỗi lòng của mình, có
cách gì tìm giúp ông. Và chúng tôi đã cất công đi tìm. Thật may mắn, trong khi
tìm về điểm chốt Long Quang (Quảng Trị) ngày ấy, chúng tôi đã gặp được một
manh mối.
Ông Phan Tư Kỳ, nguyên là xã đội trưởng xã Triệu Trạch thời
điểm năm 1972-1973, xem kỹ bối cảnh tấm ảnh rồi dẫn chúng tôi ra lại
đường ranh giới hai miền giữa trảng cát năm nào để xác định vị trí
nơi ra đời tấm ảnh.
Đây là vị trí mà vào thời điểm sau hiệp định Paris, trung đoàn
48 thuộc sư đoàn 320 đóng quân. Nhưng có đến năm đại đội thuộc hai
tiểu đoàn được rải quân theo từng nhóm đóng chốt dọc theo đường ranh
giới dài hơn 2km.
“Tôi chỉ biết chừng đó. Không thể nhớ được là người trong ảnh
thuộc đại đội nào” - ông Kỳ lắc đầu.
Ông Lê Vũ Bằng, nguyên ủy viên Ủy ban xã Triệu Trạch, phụ trách
binh vận tại chốt Long Quang thời điểm đó, dù “thấy quen quen” nhưng
cũng không nhớ là ai. Liên lạc với một số cựu binh thuộc trung đoàn
48 thời điểm ấy tại Quảng Trị nay ở Hải Phòng, Thanh Hóa, Thái Bình,
chúng tôi cũng chỉ nhận được những cái lắc đầu.
Trời Quảng Trị trở gió bấc khi dịp kỷ niệm 40 năm ngày đất
nước thống nhất đến gần. Cuộc điện thoại ngắn ngủi thông báo cho ông
Chu Chí Thành về kết quả tìm kiếm không được như ý vừa dứt trong
tiếng thở dài tiếc nuối, thì một cuộc điện thoại khác bất ngờ
đến.
Điện thoại từ ông Phan Tư Kỳ. “Có manh mối rồi. Ngày mai có
một đoàn cựu binh C5 (đại đội 5, tiểu đoàn 2, trung đoàn 48) ở Thạch
Thất (Hà Nội) sẽ ghé về Long Quang thăm chiến trường xưa” - ông Kỳ reo
lên.
Đúng 9g sáng 21-4, chiếc ôtô chở đoàn cựu binh vừa đến Long
Quang, ông Phan Tư Kỳ mang theo bức hình của chúng tôi chạy ra đưa cho
đoàn. Hơn 20 người lính C5 chuyền tay nhau bức ảnh và lục lại ký ức
hơn 40 năm trước. Ai cũng nói thấy người bộ đội trong bức ảnh quen
mặt nhưng không nhớ là người nào.
Trong buổi trưa cùng ngày, bức ảnh được những cựu binh này
chuyển đi khắp tất cả các ban liên lạc của trung đoàn 48 tại các
tỉnh thành trong cả nước qua đường Internet. Đúng 16g40 cùng ngày, một
cuộc điện thoại lạ bất ngờ đến. Đó là ông Đỗ Bê, nguyên là đại đội
trưởng đại đội 5, tiểu đoàn 2, trung đoàn 48.
Ông Bê khẳng định người trong bức hình chính là lính của đại
đội mình năm ấy. Để chúng tôi chắc chắn, ông Bê nối điện thoại cho chúng
tôi gặp ông Đỗ Thành Chấm, là một người lính của đại đội 5.
Ông Chấm khẳng định người bộ đội trong bức hình này là bạn
thân của ông từ thời niên thiếu ở thôn 2, Kim Quan, Thạch Thất, Hà
Nội, tên là Dương Minh Sắc, sinh năm 1954. Hai người nhập ngũ cùng ngày
và ở cùng đơn vị nhiều năm.
Tuy nhiên, ông Chấm thở dài: “Tiếc là Sắc đã mất vì bệnh nặng
cách đây mấy năm”. Lần theo địa chỉ của ông Chấm đưa, chúng tôi vào
Huế tìm vợ của ông Sắc. Bà Đỗ Thị Thim, vợ ông Sắc, vào Huế sống với
anh trai là một cựu chiến binh người Thái Bình hiện kinh doanh khách sạn ở đây.
Tay run run cầm bức ảnh chúng tôi đưa, bà Thim chạy vào tủ lấy
ra một tập hình kỷ niệm của vợ chồng đem ra so sánh. “Đây, cái mũi
và cặp mắt này thì không lẫn đâu được. Đúng là ông Sắc nhà tôi thời trẻ”
- bà Thim nói.
Theo bà Thim, hai ông bà gặp nhau tại Nga khi cả hai cùng đi xuất
khẩu lao động năm 1990, một năm sau thì cưới nhau và sinh con. Thời
điểm bà gặp ông Sắc cách thời điểm chụp bức ảnh này đến 17 năm sau
nên ngoại hình ông có nhiều thay đổi.
Nhưng những nét trên khuôn mặt này rất khó nhầm lẫn. Khi lấy
nhau, ông Sắc cũng kể cho bà nghe rất nhiều về cuộc chiến ác liệt ở
Quảng Trị, nhưng ông chưa một lần kể về việc chụp bức ảnh này.
“Những ngày ở Nga ông ấy cũng hay kể chuyện chiến trường. Có
lúc kể về giai đoạn sau hiệp định Paris mới thấy ông vui hơn một chút.
Bởi khi đó, lính hai bên tại vùng giáp ranh qua lại với nhau rất bình
thường. Văn công về biểu diễn bên này thì cũng gọi lính bên kia qua xem
chung” - bà Thim nói.
Năm 2008, tức gần một năm trước khi mất, ông Sắc cứ nằng nặc
đòi về thăm lại chiến trường xưa Quảng Trị.
Và sau khi thỏa nguyện ước mong này, ông qua đời. “Chồng tôi chỉ
có hình ảnh từ thời điểm năm 1990 trở về sau. Khi đó anh Sắc đã 37
tuổi. Không ngờ anh lại còn một hình ảnh ở tuổi 20 như thế này” -
bà Thim nói.
Mong tìm
được người còn lại trong bức ảnh
Vậy còn người lính Việt Nam cộng hòa trong bức ảnh là ai? Chúng
tôi tìm gặp ông Nguyễn Lai, từng là lính địa phương của quân đội Việt
Nam cộng hòa đóng tại vùng ven thị xã Quảng Trị thời điểm năm
1972-1973, cũng đóng quân ở xã Triệu Trạch, hiện sống tại Vũng Tàu.
Ông Lai nhớ đóng ở chốt Long Quang thời điểm đó là một đơn vị
quân chủ lực thuộc lực lượng thủy quân lục chiến của quân đội Việt
Nam cộng hòa. Ông Phan Tư Kỳ, nguyên xã đội trưởng xã Triệu Trạch
thời điểm đó, xác nhận người lính cộng hòa trong bức ảnh thuộc
tiểu đoàn 5, lữ đoàn 258 thủy quân lục chiến Việt Nam cộng hòa.
“Thời điểm đó tôi cũng hay nói chuyện với lính bên đơn vị này.
Họ toàn nói giọng miền Nam và nhiều người cho biết họ lớn lên từ cô
nhi viện” - ông Kỳ nói.
Ông Chu Chí Thành là người vui nhất khi tìm được một người trong
bức ảnh này. Ông cũng giải tỏa được nỗi niềm trong lòng mình mấy
mươi năm qua. Tuy nhiên, ông vẫn rất muốn tìm lại người lính Việt Nam
cộng hòa chụp chung trong bức hình đó.
“Tôi luôn xem tấm ảnh này như là biểu tượng hòa hợp của hai miền”
- ông Thành nói. Khi tấm ảnh này được đăng lên ở đây, nếu người lính này vẫn
còn thì hãy cho ông nhà báo chiến trường này được gặp. Hoặc ai biết anh ấy thì
xin mách mối giúp.
Tôi với anh
Hai mái đầu xanh
Xanh như màu quân phục...
Làng tôi sông Hồng nước đục
Quê anh Vàm Cỏ lở bồi
Mẹ nhớ tôi, hết đứng, lại ngồi
Má mong anh, vào nhà, ra ngõ
Tôi đã ngỏ lời vào một đêm trăng tỏ-Trước lúc lên đường
Ba lô anh có kỷ vật người thương-Đêm giở ngắm trên đường hành tiến
Người ta bảo anh đi bảo vệ quốc gia
Người ta bảo tôi vào nam cứu nước
Tôi và anh
Có bao giờ tính suy mất được
Cho bản thân mình, cho mẹ, cho em
Chỉ nghe kèn trống nổi lên
Người hối thúc đưa ta vào chiến trận
Đồng quê tôi cỏ mọc xác xơ
Nước quê anh cá chết dạt bờ
Người con gái quê anh, quê tôi héo hắt đợi chờ
Mình mê mải với giấc mơ bạo chúa
Tôi và anh
Hai mái đầu còn xanh
Xanh như màu quân phục
Nào...!
Hãy khoác vai nhau ta cùng chúc phúc
Để tôi về ngoài ấy đắp đê
Nước Vàm Cỏ cũng đang gọi anh về
Cùng cày cấy nuôi mẹ già anh nhé
Mê muội qua rồi, chia tay trên lối rẽ
Gửi cho nhau lời xin lỗi muộn màng
Một cánh mai tươi, một nén hương vàng
Ta về tặng cho những người đồng đội
Ta bá vai nhau để những người kia xóa tội
Dưới suối vàng
Họ...!
Chắc cũng đã ôm nhau...!
Không hiểu sao đọc xong bài thơ, trong đầu tôi lại hiện lên cái lễ tiếp
nhận đầu hàng của quân đội miền bắc và miền nam trong cuộc chiến tranh nam bắc
Mỹ cách đây hơn hai trăm năm. Không một tiếng hò reo vui mừng của người chiến
thắng. Không một tiến trống thúc. Khi những người lính miền bắc, kẻ chiến thắng
định bắn các loạt đại bác chào mừng thì tướng Grant đã ra lệnh ngừng ngay những
hoạt đọng chào mừng lại . Ông bảo với họ “ Chiến tranh đã kết thúc bây giờ họ
là đồng bào của chúng ta” . Hai đội quân hiên ngang đứng đối mặt nhau trong con
mắt họ ánh lên một sự kính trọng đối thủ. Im lặng! Một sự im lặng thiêng liêng
trùm lên hai đạo quân. Đây không phải là một lễ đầu hàng . Họ! Hai đứa con Mĩ
hư hỏng đánh lộn nhau và giờ đây Mẹ Mỹ choàng ôm lấy hai đứa con hư, kéo chúng
vào bầu vú căng sữa của mình để mặt chúng giáp lại bên nhau, cùng hít thở mùi
sữa mẹ để chúng nhận ra “ Chúng là hai anh em”. Tôi bỗng hiểu vì sao nước mĩ
lại hùng mạnh đến thế và bỗng hiểu vì sao chúng ta cứ mãi mãi là một nước nhược
tiểu. Nước Mĩ hùng mạnh bởi những nhà lãnh đạo Mĩ là những người có tầm cao văn
hóa. Ngay sau chiến tranh, người Mĩ đã đánh tan mối thù hận giữa hai miền nam
bắc. Cả nước trở thành một khối không còn cái mặc cảm của kẻ chiến bại và cũng
không còn cái vui mừng của người chiến thắng. Nước Mỹ có 11 lễ hội kỷ niệm cấp
quốc gia nhưng trong đó không có ngày kỉ niệm chiến thắng nam bắc Mỹ. Còn chúng
ta? Những ngày tháng tư này tôi cứ nghe ra rả những lời ngợi ca chiến thắng.
Chúng ta chiến thắng ư? Chiến thắng ai? Khi phảỉ nghe những lời ca ngợi ấy,
trong tôi lại vang lên câu thơ của Tào Thực cách đây đã hơn một nghìn năm
Hạt đậu khóc hu hu
Cùng sinh ra một gốc
Thiêu nhau nỡ thế ru
Người ta bảo tôi vào nam cứu nước
Bác bảo thắng là thắng.
Tố hữu
Chọn thời mà sống chăng? Anh sẽ chọn thời gian nào thế nhỉ
Cho tôi được sinh trong buổi đảng dựng xây đời.
Chế lan Viên
Cho tôi được sinh trong buổi đảng dựng xây đời.
Chế lan Viên
Và đấy cũng là lúc những thứ cụ thể, thiêng liêng, gần gũi ngày xưa trở
nên nhòa nhạt trong chúng tôi, biến thành thứ “Người ta” xa lạ
Anh được gì trong cuộc chiến ây ? Tôi được gì trong cuộc chiến ấy?
Anh được gì trong cuộc chiến ây ? Tôi được gì trong cuộc chiến ấy?
Nước quê anh cá chết dạt bờ
Người con gái quê anh, quê tôi héo hắt đợi chờ
Hình như Đại việt sử kí toàn thư đã nhầm. Không phải là mẹ Âu Cơ mang
năm mươi người con xuống biển mà là sau khi li hôn mẹ Âu Cơ mang năm mươi người
con vào Miền nam còn bố Lạc Long Quân giữ năm mươi người con ở lại miền bắc .
Trong sự tức giận , Lạc Long Quân đã đốt chiếc bọc chứa một trăm quả trứng
thành than, rắc tro của nó xuống biển đông và bảo với các con rằng : « Từ nay,
chúng nó không còn là « Đồng bào » của ta nữa » và thế là năm mươi đứa con của
mẹ âu cơ với năm mươi đứa con của bố lạc long quân trở thành kẻ thù không đội
trời chung. Mối hận thù tiền kiếp ấy cho đến bây giờ vẫn chưa tan.
Có những dân tộc trong một thời điểm hiếm hoi nào đó của lịch sử, dưới
sự dẫn dắt của lòng tự tôn dân tộc, và sự dối trá, lừa bịp của những kẻ cầm
quyền mà trở nên cuồng tín. Khi đó gần như toàn bộ dân tộc đó trở nên độc ác và
tàn bạo. Nhưng họ chỉ tàn bạo và độc ác với những người khác chủng tộc với họ
còn với dân tộc họ họ vẫn là những con người mà Đức và Nhật trong đại chiến thế
giới lần thứ hai là hai ví dụ diển hình. Còn chúng ta? Chúng ta độc ác với
chính dân tộc mình.
May mắn cho hai dân tộc đó, họ đã bại trận. Niềm tự hào man dại của họ
đã buộc phải quỳ gối trước cái thiện, cái tốt đẹp của con người. Ngọn lửa ấy
tắt ngấm trong tâm hồn họ để cho họ nhận ra rằng « Máu người không phải nước lã
» và « Sinh mạng và phẩm giá là hai thứ trân quý nhất mà tạo hóa đã dành cho
con người”. Tiếc thay dân tộc ta không có được cái may mắn của dân tộc Đức và
Nhật. Chúng tôi đã chiến thắng. Chúng tôi đã chiến thắng các anh, người anh em
của tôi. “Đồng bào” của tôi Và cái ngọn lửa man dại đó đã được tiếp thêm nhiên
liệu để cho nó tiếp tục cháy không biết đến bao giờ.
Đọc bài thơ này, đọc những comment trong bài thơ này, tôi lại ngậm ngùi
cho số phận những người lính các anh trong những trại “Cải tạo” của chúng tôi.
Dưới ánh sáng của ngọn lửa chiến thắng man dại, Cái “Người ta “ ấy đã “Cải tạo”
các anh bằng cách thắp lên trong các anh một ngọn lửa hận thù.
Tôi đọc lại bài Cáo Bình Ngô mà trong lòng bỗng nhiên ngờ ngợ. Dân tộc
này kì lạ quá, rất nhân đạo với kẻ thù nhưng lại tàn nhẫn với chính mình
Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
Chao ôi! người ta vẫn tự hào rằng “Người ta” nhân đạo. Không có cuộc tắm
máu nào sau chiến thắng. Cũng đúng! So với phát xít Hít le, với Pinôchê , với
pôn pốt thì quả “ Người ta” nhân đạo hơn thật. Nhưng sao con mắt của “người ta”
chỉ luôn cắm đầu nhìn xuống đám bùn đen dưới chân mình mà không ngửa mặt lên
nhìn bầu trời cao lồng lộng? Hay đấy là tâm thức của văn hóa Việt? Chỉ luôn so
sánh mình với những cái kém hơn. Mà ta ở đâu trong thế giới rộng lớn này? Ta ở
gần đáy của nó. Đáy cách ta một gang tay, bầu trời cách ta cả ngàn cây số thế
mà ta chỉ nhìn xuống dưới chân mình thì làm sao ta có thể cất mình lên .
Đọc bài thơ tôi lại liên tưởng đến những nước Đông Âu đã bị sụp đổ. Bao
nhiêu nước nhưng duy nhất có hai người bị kết án tử hình vì kẻ đó đã ra lệnh
cho quân đội bắn vào đoàn biểu tình còn lại tất cả đều được tha thứ . Không một
ai bị tù đầy và nó cũng là một trong những nguyên nhân khiến những nươóc đó
tiến những bước dài trong kinh tế.
Mê muội qua rồi, chia tay trên lối rẽ
Mê muội qua chưa? Chưa qua đâu! Có thể với nhà thơ, người viết bài thơ
này đã thoát khỏi cơn mê sảng nhưng sâu trong tiềm thức của bao nhiêu người dân
miền bắc cái ngọn lửa hào hùng chiến thắng vẫn cháy và trong hàng triệu người
miền nam ngọn lửa hận thù vẫn cháy. Và vết rạn của dân tộc vẫn cứ hiện hữu
trong mỗi chúng ta.
Bao giờ chúng ta mới có thể ôm nhau trong vòng tay mẹ Việt để cho cái ước mơ của người viết bài thơ này trở thành hiện thực.
Bao giờ chúng ta mới có thể ôm nhau trong vòng tay mẹ Việt để cho cái ước mơ của người viết bài thơ này trở thành hiện thực.
Ta bá vai nhau để những người
kia xóa tội
Dưới suối vàng
Họ...!
Chắc cũng đã ôm nhau...!
Dưới suối vàng
Họ...!
Chắc cũng đã ôm nhau...!
Vài lời xin lỗi gửi đến tác giả bài thơ.
Tôi hứa với anh viết tặng anh một bài bình nhưng không hiểu sao những suy tư trăn trở của anh cứ lôi tôi vào những suy tư mà bài thơ anh chưa nói đến. Cho tôi xin lỗi! Nhưng một bài thơ có thể lôi người đọc vào những suy tư có lẽ đó là lời khen lớn nhất rồi phải không anh.
Tôi hứa với anh viết tặng anh một bài bình nhưng không hiểu sao những suy tư trăn trở của anh cứ lôi tôi vào những suy tư mà bài thơ anh chưa nói đến. Cho tôi xin lỗi! Nhưng một bài thơ có thể lôi người đọc vào những suy tư có lẽ đó là lời khen lớn nhất rồi phải không anh.
No comments:
Post a Comment