Tâm Sự Của Một Món Quà
Tên nguyên thủy của tôi là Calor, cha mẹ nuôi người
Việt Nam của tôi đổi lại thành Ủi. "Nghề" của tôi là làm đẹp
cho người qua y phục. Một món hàng vải dù nhăn nheo đến đâu, nhờ bàn tay của
tôi cũng trở nên phẳng phiu, mượt mà. Thân tôi to béo, nặng nề chứ không
thanh mảnh, nhẹ nhàng như những bạn đồng trang lứa ở Hoa Kỳ. Cha mẹ đẻ
tôi là người Pháp, bên trời Tây. Xưa kia vì nhu cầu thương mãi tôi
bị bán sang đất nước Việt Nam. Lưu lạc xứ người, tôi đã làm con nuôi cho
một gia đình Viêt Nam. Sau những cuộc hành trình xuyên lục địa, hiện
giờ tôi đang ở Houston, Texas.
Chỗ tôi ở hiện nay là một căn tủ nhỏ, bên
ngoài phòng ăn của cha mẹ nuôi tôi - hiện là một gia đình người Mỹ gốc
Việt. Tôi đang sống những ngày tĩnh lặng, cố quên hết quá khứ thăng trầm,
thời gian, và không gian, bỗng một hôm tôi nghe được
mẩu đối thoại viễn liên của cha mẹ nuôi tôi với một người bà con:
- Cậu biết không, món quà cưới cậu mừng cho
chúng cháu, đến bây giờ chúng cháu vẫn còn giữ. Đã 50 năm rồi.
- Vậy hả?! Thật là cảm động! Không ngờ các
cháu trân quý, giữ gìn một vật tầm thường được lâu đến như thế!
Tôi giật mình: họ đang nói tới tôi! Năm nay tôi 50
tuổi rồi, đã thọ quá sức tưởng tượng so với đồng loại. Đó cũng là nhờ cha
mẹ nuôi tôi đã thương yêu, chăm sóc, che chở, bảo bọc tôi như con ruột.
Cả một thời quá khứ bỗng hiện ra trước mắt
tôi. Năm ấy ở Huế tôi được ông cậu diện cho một chiếc áo màu đỏ rực rỡ
hình khối chữ nhật rồi đem trao tặng cho người cháu (là cha nuôi tôi hiện
nay) trong ngày cưới của cha. Tôi được huy hoàng một ngày, để rồi hôm sau
tôi bị xếp nằm chung hàng với đủ thứ hộp: nào ly, tách, bình thủy, đèn... cũng
thuộc loại "quà" như tôi, vì thời ấy người ta không mừng đám cưới
bằng tiền. Một món quà dù bé nhỏ, đơn sơ cũng được trân trọng rồi.
Trong vùng cha mẹ nuôi tôi ở thời đó chưa có điện
nên tôi bị "thất nghiệp" nằm dài trong ngăn tủ. Mỗi khi
tôi nghe tiếng nhóm lửa, quạt phành phạch, rồi tiếng phun nước phù phù từ miệng
bà mẹ tôi, tôi biết ngay bà sắp sửa dùng chị bàn ủi than để ủi áo quần cho ông
ngoại, cho cha tôi đi làm... Tôi thấy mẹ hì hà hì hục tội quá mà không
giúp gì được, vì dòng điện - mạch sống của tôi - không có!
Vài tháng sau, dòng điện cũng đến xóm Tri Vụ của
tôi, mang ánh sáng đến mọi nhà. Tôi có "job' ngay. Nhờ có tôi mà mẹ
ủi áo quần cho cả nhà mau chóng, nhẹ nhàng. Tôi vui biết bao khi mẹ
ôm tôi trong tay để tôi mơn trớn vuốt ve những áo quần của người thân cho thêm
mượt mà, óng ả!
Rồi mẹ có em bé đầu tiên. Năm sau thêm một em
nữa. Mẹ bận tới tấp, đâu có thời giờ mà ôm tôi vuốt ve! Tôi nằm
trong xó tủ, vô công rỗi nghề, nhưng thỉnh thoảng lòng cũng vui vui khi nghe mẹ
hát ru em bằng tiếng Pháp - tiếng nước tôi "Que sera sera. Demain
mais jamais bien loin. Laisser l'avenir venir! Que sera
sera..." Biết ra sao ngày sau! Đời cũng như bức tranh đủ
màu... Nào ai biết ngày sau..." Và, tôi bắt chước các em gọi ba mẹ.
Đúng! Không ai biết được ngày mai!
Chẳng bao lâu sau, tôi bỗng rơi vào những ngày tối
tăm, hoảng loạn, và đơn độc. Tôi nghe đạn ở đâu bắn vô nhà,
tiếng ầm ầm dữ dội. Mái nhà sập, tường lở, vôi cát rơi rào rào...
Chung quanh tôi chẳng còn ai, ngay cả ba mẹ tôi. Vắng lặng rợn người!
Phải đến nhiều ngày sau, khi im tiếng súng, tôi nghe có tiếng ồn ào của nhiều
người ùa đến. Tiếng cãi nhau, giành giựt nhau cho tôi biết họ là bọn hôi của
khi nhà vắng chủ. Họ đã lấy hết đồ đạc, tư trang, của cải trong nhà của
cha mẹ tôi! Còn tôi có lẽ họ chê thân hình thô tháp nên còn để nằm đó cho
tôi im lặng chờ thời!
Rồi một ngày kia, ba mẹ tôi cùng ông bà và các em
chạy loạn từ đâu đó, sống sót trở về. Nhà cửa hư nát hết, không sao ở
được nữa nên họ đã gom góp đồ đạc còn sót lại vào trong hai túi xách
ra đi, không quên mang tôi theo.
Sau này tôi nghe ba mẹ tôi nói với nhau: "Mình
vừa qua trận Mậu Thân do Việt Cộng tấn công thật kinh hoàng. May quá mình
còn có nhau!" Rồi thì ông ngoại tôi bán nhà. Tôi cùng gia đình
dọn nhà qua nhiều nơi: Hàng Bè, Cầu Đất... An Cựu. Mỗi nơi ở tạm nhà bà
con ít lâu rồi lại ra đi. An Cựu là nơi ở tương đối lâu hơn cả.
Trong khoảng thời gian đó tôi nằm trong xó xỉnh, nghe không gian vắng lặng mà
âm thầm buồn tủi vì mình là kẻ vô dụng, là tên thất nghiệp. Ba tôi
đi làm việc ở xa, lâu lắm mới về. Một lần nghe tiếng xe Honda, rồi tiếng
reo vui của các em: "A! Ba về! Ba vê!" khiến tôi cũng cảm thấy
vui lây! Sau đó, mẹ cũng thuyên chuyển ra làm việc ở Quảng Trị theo ba.
Lúc đó, thỉnh thoảng tôi được mẹ đem ra vuốt ve, mơn trớn trước khi tôi được
dịp làm cho phẳng phiu những bộ đồ lính của ba.
Tiếp theo, mẹ lại quên tôi khi một em bé nữa ra
đời. Ở Quảng Trị được một thời gian độ chừng vài năm, gia đình tôi vội vã
dọn nhà về Phan Thiết. Đến nơi, tôi nghe ba nói với mẹ: "May quá!
Việt Cộng đánh lớn Quảng Trị. Mình đi trễ hơn chừng ba tháng thì
sinh mạng của gia đình tiêu tùng rồi."
Ở Phan Thiết, ngày tháng tưởng như êm đềm
trôi. Nhưng những khó khăn chồng chất, mẹ bận rộn với việc công, việc gia
đình, con cái... nên áo quần của ba phải đưa tiệm giặt ủi; còn mẹ, năm thì mười
họa mới lôi tôi ra để làm đẹp áo của mẹ. Lúc đầu gia đình tôi ở gần chợ
Phường, sau dọn lên ở khu Gia Binh gần Quân Y Viện cho tiện công vụ của
ba. Mẹ bận cả ngày lẫn đêm. Rồi tôi có thêm em bé thứ tư. Tôi bị bỏ
quên nhưng mỗi lần nghe tiếng mẹ ru em, lòng tôi lại rộn ràng niềm
vui!
Một bữa, ba tôi trở về, hớt hãi nói với mẹ:
"Tình hình nguy lắm rồi. Phan Thiết sắp mất! Em hãy đưa các
con đi trước vào Sài Gòn. Anh còn nhiều việc ở Quân Y Viện, sẽ thu xếp đi
sau!" Ba tôi ở lại cho tới ngày cuối cùng của Quân Y Viện. Khi
ra đi, ba mang tôi theo làm bạn đồng hành.
Chúng tôi lại đoàn tụ ở Sài Gòn. Không
khí toàn Miền Nam hừng hực lửa chiến tranh. Ba bàn với mẹ: "Thôi mình về
Long Xuyên, yên tĩnh hơn!" Long Xuyên có ông bà ngoại và người bà
con bên mẹ. (Ông bà đi Long Xuyên khi chúng tôi dời ra Quảng Trị).
Thế là chúng tôi lại đi tiếp. Ở được ít lâu toàn Miền Nam lọt vào tay
cộng sản Bắc Việt. Súng đã hết nổ nhưng lòng người còn hoang mang lo
sợ. Lệnh của chính phủ mới: Ai làm ở đâu, về nơi đó trình
diện. Gia đình tôi lại lếch thếch về lại Phan Thiết.
Chúng tôi được một người bạn của ba cư trú
tại Đức Thắng cho ở nhờ. Không khí ở đây có vẻ êm ả, nhưng hai con
chó nhà này hay sủa ông ổng vì thấy người lạ làm các em và tôi sợ hãi.
Một bữa, ba tôi đi trình diện các "Quan Cách
Mạng" rồi không về nữa. Đứa em trai út là người được ba cưng nhiều nhất,
ngày nào cũng mếu máo với mẹ: "Ba đâu? Ba đâu rồi?" Mẹ vừa dỗ dành nó
vừa khóc sụt sùi.
Sau đó, một mình mẹ sắp xếp dọn đến một căn chòi lá
giữa động cát phường Phú Thủy để gần trường mẹ dạy và các em đi học. Mấy mẹ con
sống cầm cự bên nhau trong cảnh hẩm hiu, buồn thảm. Tôi cảm thấy mình như
người vô dụng vì không giúp gì được cho mẹ và các em. Lúc nào mẹ và
các em ra khỏi nhà, con chó vàng được tôi coi như bạn thiết. Tiếng sủa của nó
đã làm cho không gian bớt phần cô quạnh. Không lâu sau, thỉnh thoảng có
mấy chị học trò đến nhà nhờ mẹ sửa lại cái áo, cái quần. Đó là lúc mẹ đem
tôi ra nhờ giúp một tay. Tôi đã giúp mẹ làm thẳng nếp áo quần để dễ dàng
hơn khi chỉnh sửa cho vừa vặn. Tôi đã sung sướng khi nhìn các chị tặng mẹ
chút ít tiền... "để cô mua bánh cho các em!" À, thì ra tôi
cũng có ích đấy chứ, tuy không nhiều, chỉ tội cho mẹ cực khổ chồng chất
khổ cực, buồn bã chất chồng buồn bã.
Những tưởng ba đi trình diện rồi về. Có ai
ngờ năm này qua năm khác, ba vẫn chưa về! Một hôm mẹ được lệnh cho đi
thăm nuôi ba. Mẹ dẫn hai em giữa, để cô chị và cậu em út ở nhà. Một ngày,
rồi hai ngày trôi qua trong nặng nề. Ngày nào hai em cũng ra ngõ đứng
trông! Tôi nghe tiếng nức nở của hai em mà xốn xang trong lòng: "Sao
mẹ chưa về? Mẹ đi lâu quá!" Tôi bỗng lo lắng, lỡ có chuyện gì
xẩy ra, mẹ không về nữa thì sao? Nhưng may quá, đến tối mịt ngày hôm sau
thì đoàn ba người về tới nhà, phờ phạc vì mệt mỏi đường trường.
Tuy thế cả nhà đều vui vẻ bởi còn đủ mẹ đủ con.
Ngày qua ngày, vì đói khát, khổ
cực, cùng vất vả quá mức nên mẹ yếu sức thê thảm, không còn khả năng thăm
nuôi ba vì không biết ba ở tù bao lâu mới được thả, và chỉ
thấy con đường chết lần mòn nếu trụ tại Phan Thiết nên cả năm mẹ con
(kể luôn tôi là sáu) lếch thếch kéo nhau về Long Xuyên nương tựa ông bà ngoại,
đành bỏ lại ba. Ở với ông bà ngoại, mẹ và các em tuy cũng phải vất vả kiếm sống
nhưng có một chỗ ấm áp để ăn ngủ không phải chịu cảnh lạnh buốt
khi gió mùa Đông lọt qua vách lá, run lập cập khi mưa chảy thành
dòng từ mái nhà như thuở ở cái chòi lá tại Phan Thiết.
Ngày tháng trôi... Bỗng một ngày, tôi nghe từ nhà
sau tiếng các em reo mừng rối rít: "A! Ba về rồi! Ba về
rồi!..." Cả nhà vỡ òa niềm vui. Tôi cũng cùng vui cảnh cả nhà đoàn
tụ. Tuy nhiên tôi vẫn không giúp được gì cho gia đình. Ba mẹ và cả các em
nữa lo cái ăn còn chưa xong, kể chi đến cái mặc! Tôi nằm vùi trong kẹt tủ ngày
qua ngày, không ai nhớ đến tôi!
Ông bà ngoại tuổi già sức yếu, lần lượt ra đi...
Tôi nghe tiếng tụng kinh, tiếng khóc, tiếng người đưa tiễn xôn xao mà ngậm ngùi
cho đời người!
Rồi một hôm...
Tôi nghe ba mẹ lịch kịch thu xếp hành lý và nói với
nhau: "Đi lên Sài Gòn sớm cho kịp chuyến bay." Lại sắp ra đi...
Ra đi lần này vẻ mặt mọi người tuy căng thẳng nhưng đượm nét rạng rỡ vui
tươi, không giống những lần trước ủ rũ như tàu lá chuối héo úa bị cơn
mưa bão đánh cho bầm giập, rách nát tả tơi. Qua câu chuyện của
gia đình, tôi biết lần này đi Hoa Kỳ. Tôi sợ tôi bị bỏ lại vì vẻ nhà quê,
lạc hậu của tôi, nhưng không. Tôi được xếp nằm chung
với những đồ thờ của ông bà ngoại như chuông, mõ, lư trầm, lư
hương... cùng những thứ lỉnh kỉnh như kềm, búa, kéo... mà ba mẹ tôi trân trọng
giữ gìn bấy lâu như những kỷ niệm khó quên.
Đến Montclair, California, cả nhà bắt đầu một cuộc
sống mới. Cả nhà hăng hái, hớn hở lao ra đi làm, đi học. Tôi thấy lòng
hân hoan vì biết từ đây mình không còn thất nghiệp nằm rũ trong xó tủ
nữa. Các em tôi cứ rối rít: "Đồ ăn trong tủ lạnh ê hề, chả bù ngày
xưa đói khát triền miên, ngay cả củ khoai cũng hiếm."
Những lúc rảnh rổi mẹ dạy các cô em cắt may áo quần mới. Tôi được dịp trổ
tài làm thẳng thớm, mượt mà vải vóc, áo quần cho các cô em ăn diện, làm đẹp với
người. Có lần, một bà bạn của mẹ thấy tôi khéo léo, đi những đường nét
tuyệt vời lên vải, bà thích quá, đòi mượn. Mẹ tôi trả lời: "Đây là
của gia bảo, không thể trao cho ai được" làm tôi xúc động vô
cùng! Cảm ơn mẹ, cảm ơn ba đã cho tôi cái vinh dự này.
Các em học hành, tốt nghiệp trung học rồi Đại
học, có công ăn việc làm, lập gia đình, ra ở
riêng. Gia đình chỉ còn lại ba mẹ và tôi. Sau đó ba mẹ dời
qua Houston, Texas, chỉ có tôi hân hạnh được theo ở với ba mẹ. Tôi là
người con được hòa vào nhịp sống của gia đình: lúc thăng lúc trầm, lúc sướng
lúc khổ, lúc vui lúc buồn, lúc đói lúc no.
Giờ đây tôi đang sống những ngày bình lặng, nhưng
không phải là kẻ vô ích. Thỉnh thoảng ba hay mẹ đem tôi ra mân mê, nhờ tôi làm
đẹp áo quần sau khi giặt, rồi lại trân trọng cho tôi nghỉ ngơi ở một ngăn tủ
riêng biệt. Đôi khi cao húng, ba cầm Harmonica thổi bài One Day.
Nhà vang lên tiếng cười.
Tính ra đến nay tôi đã 50 tuổi đời sống với ba mẹ.
Tôi thọ hơn nhiều so với các bạn đồng nghiệp. Đó cũng là nhờ tình thương
và sự chăm sóc của ba mẹ, nhất là mẹ. Mỗi đêm nghe mẹ thỉnh
chuông và cầu nguyện: "Lạy Phật, cho con có một sức khỏe ổn định
trong những ngày cuối đời để con làm người có ích cho
gia đình," tôi noi gương mẹ cũng cầu mong bốn chữ: Hữu
Dụng Cho Đời.
Houston, Texas 30/4/2015
No comments:
Post a Comment