Không một tiếng vang
Dòng nước đã đứng ròng. „Đứng“ là không chảy
nữa, còn „đứng ròng“, khác với „đứng lớn“ là dược chảy xuôi dòng ra biển, chớ
không phải dược chảy ngược nguồn, như khi nước đã ròng sát.
Rình con nước từ sớm đến giờ, anh Nhánh nói :
- Thôi, phụ đem ghe ra cho tao, mầy.
Anh gọi vợ anh theo lối nhà quê, kêu chị bằng
„mầy“ và xưng „tao“ với chị.
Chị Nhánh đang thổi lửa nấu cơm, vội đứng
lên, rồi cả hai vợ chồng nhổ sào, chống chiếc ghe nhỏ ra giữa dòng sông.
Khúc sông Đồng Nai ở đây khá rộng, và đó là
con sông sâu, tàu lớn chạy được. Nhưng kỳ lạ chưa! Hai vợ chồng anh Nhánh chỉ
dùng sào ngắn mà chống, đầu sào chìm dưới nước cỡ lối ba thước thôi. Khi ghe ra
tới giữa dòng sông, họ không bỏ neo mà cũng chỉ cặm sào như trong bờ cạn, làm
như đây là một con rạch nhỏ, thật nhỏ.
Anh Nhánh mặc quần đùi, mình trần trùi trụi
đưa cái lưng đen thui ra. Anh cầm một cái thúng nhỏ, đứng trên be ghe và toan
„lông-rông“. Nhưng chị Nhánh nói :
- Khoan đã ! Để tôi bắt nồi cơm.
Đây là một loại công việc phải hai người làm
mới được, nên anh đành phải đợi vợ nhưng sốt ruột, anh hối thúc :
- Đại đi ! Cho mau đi !
Nồi gạo vo rồi, được chị Nhánh bắt lên chiếc
cà ràng mà bây giờ lửa đã cháy hỏa hào hỏa đế rồi. Chị vội vàng lắm vì chị biết
chồng chị sốt ruột có lý. Rồi chị chạy trở ra phía trước ngay,
nhảy lên mui, để bước cho được lẹ hơn là bò
dưới cái mui ghe thấp quá ấy.
*
Anh Nhánh không day lại, cũng biết rằng vợ
anh đã ra tới nơi. Anh xách thúng phóng lẹ xuống nước, đầu trước, cẳng sau.
Chị Nhánh nghe một cái tùm, thấy nước bắn lên
trắng xóa và mặt nước khép lại trên người của chồng chị.
- Một... hai... sáu... chín... mười hai...
mười lăm... hai chục...hăm tám... băm hai...
Chị Nhánh đếm tới đó thì nước dợn rồi một cồn
cát nổi lần lần lên. Nước sông trong vắt nên chị thấy được màu cát vàng hồi nó
còn ở sâu dưới nước non một thước. Cồn cát cứ trồi, trồi lần và nổi lên khỏi
mặt nước. Đó là một cái cồn nhỏ bầng chiếc nón lá... Không ! Đó là thúng cát
đầy vun mà anh Nhánh đội trên đầu. Thúng cát vừa nổi lên khỏi mặt nước thì chị
Nhánh vói tay xuống bưng lên đổ vào khoang ghe,vì chậm một chút là chồng chị sẽ
hụt hơi: anh ấy xúc cát dưới đáy nước xong, đội thúng lên đầu rồi lấy chơn đạp
đáy sông để tự mình bắn vọt lên. Tuy chơn anh mạnh vô cùng và anh tự bắn như có
lò xo bật, nhưng thúng cát thấm nước ấy nặng quá, nên anh nổi hơi chậm mà thì
giờ thì đã trôi qua hơn ba mươi giây rồi. Rồi anh Nhánh lại lặn với chiếc thúng
không và chị Nhánh lại ngồi đếm và rình thúng cát.
*
Anh Nhánh trước kia là thợ lặn chuyên môn mò
cây trên các hàn. Đó là những cây be chở từ rừng về Sài Gòn, bằng đường thủy,
dưới những chiếc bè tre. Sông Đồng Nai từng chặn lại có đá hàn, tuy vào mùa
nước nổi, bè lọt qua được chớ thỉnh thoảng vài chiếc bè cũng thọ nạn, đứt dây, và
cây chìm giữa hàn. Qua mùa nắng, nước sông tương đối cạn đi, anh Nhánh lặn
xuống dưới đáy hàn, mò cây đã mất trong mùa nước, cột dây để trục lên. Sau nầy,
sức anh yếu đi, nên anh dùng tài lặn của mình một cách không nguy hiểm là xúc
cá xác cho một tiệm cháo cá. Cá xác thịt rất ngon, nấu cháo ăn thì số dách.
Loại cá nầy chỉ ưa có hai món lương thực, là cặn bã do ruột người loại ra và
“hèm”, cái món mà miền Bắc gọi là bỗng, tức bã rượu.
Anh Nhánh chiều chiều đội một chiếc cần xé
nhỏ đựng một mớ hèm trong đó, rồi lặn dưới sông. Cá xác đánh hơi hèm, đổ xô vào
giỏ cần xé rồi anh bắn tung người anh lên khỏi mặt nước. Anh chỉ lặn độ mươi
lần là hiệu cháo cá đủ bán suốt đêm đó.
Thấy rằng cả đời làm công không đưa anh tới
đâu cả, anh Nhánh bèn dành dụm rồi sắm chiếc thuyền nhỏ nầy, xúc cát chở xuống
Sài Gòn bán.
Sông Đồng Nai có rất nhiều cồn cát nổi, nhưng
những cồn ấy bị họ tới kiếm ăn đông quá, đông đến hết chỗ đứng. Vả lại bao
nhiêu người cứ đào bới thì chầy ngày cồn nổi nào cũng hóa ra cồn ngầm hết ráo.
Thế nên anh Nhánh mới tách ra, chiếm độc quyền cái cồn ngầm nầy, cồn đang thời
kỳ thành hình, còn ngầm sâu, không ai thèm rớ tới, vậy mà thích hơn vì khỏi
chen chúc, vả anh là thợ lặn thì cần gì cồn chìm hay nổi !
Anh Nhánh lên xuống đã được ba mươi lần rồi.
Nước càng phút càng ròng và mực nước càng phút càng thấp xuống. Và chiều sâu
của khúc sông nơi đó càng phút càng được thâu ngắn. Thế mà anh Nhánh lại không
bao giờ trồi lên trước con số ba mươi mà chị Nhánh đếm. Chị Nhánh hơi ngạc
nhiên vì, lẽ cố nhiên, hễ nước cạn thì thời gian lặn phải ngắn hơn. Lần thứ băm
mốt nầy, chị Nhánh đếm tới bốn mươi mới thấy dạng thúng cát thấp thoáng dưới
mặt nước. Vừa rước lấy thúng cát, chị vừa hỏi.
- Sao lâu vậy mình ?
- Tao mệt lắm...ắm...ắ...m.
- Thì đành là đi nhiều chuyến thì phải mệt,
nhưng sao chuyến nầy đi lâu vậy chớ ?
Anh Nhánh thở hổn hển nói :
- Tao nghe lùng bùng lỗ tai quá trời. Ngực
với lại màng tang của tao như là có cái gì nặng lắm nó đè lên đó.
- Thì tại mình lặn lâu. Nhưng tại sao mà lâu ?
Hỏi hoài hổng chịu trả lời !
- Không phải vì lặn lâu. Tại tao yếu trong
mình nữa. Cái nghề nầy không làm tới già như các nghề khác được. Còn lặn lâu là
tại lớp cát xốp ớ trên đã hết. Lớp dưới dẽ dặt quá, phải cào lâu mới hốt đầy
thúng.
- Thôi nghỉ một lát.
- Nghỉ sao được ! Làm tới nước đứng lớn mà
còn chưa đầy ghe thì đừng có nói chuyện nghỉ.
*
Rồi anh Nhánh lại lặn. Nhưng mặt nước vừa
khép lại là anh nổi lên liền, với cái thúng không. Anh vói tay vịn be thuyền,
nhưng không rút mình lên được như mọi lần mà anh thót một cái là tới nơi, như
con khỉ. Chị Nhánh phải cố sức nắm tay anh kéo lên, anh mới ra khỏi mặt nước.
Nằm dài trên sạp ghe, anh Nhánh thở dốc và
nói, giọng đuối sức.
- Tao tức ngực quá.
- Thôi ! Bỏ một chuyến.
- Hổng được. Ghe mình mua trả góp, mà góp trễ
một kỳ tiền là họ lấy lại.
Chị Nhánh bỏ chồng nằm đó, đi ghế cơm. Khi
chị trở ra thì anh Nhánh hỏi :
- Nước gần đứng lớn chưa ?
- Mới có nửa con nước, còn lâu mà !
- Nửa con nước, nhưng ta chưa được nửa ghe
cát.
- Khi mạnh khỏe thì khác, giờ bịnh hoạn thì
khác chớ ! Mình cứ muốn đầy ghe trong một con nước sao được !
- Một đâu mà một, hai con rồi đó chớ ! Con
nước hôm qua không tính à ? Nếu phải
bốn con nước thì chết đói còn gì ?
Được đâu chừng tàn một điếu thuốc, anh Nhánh
cố chống tay ngồi dậy. Anh nhìn mặt nước, thở thêm một hồi nữa rồi xách thúng
đứng lên toan nhảy.
- Hổng nghỉ thêm hay sao ? Vợ anh hỏi.
Anh Nhánh không buồn đáp lại vợ, lao mình
xuống sông liền.
- Một...hai... ba... mười... mười tám... hăm
hai... hăm bảy... băm mốt...băm chín... bốn mươi hai...
Chị Nhánh đâm lo. Chồng chị nổi danh lặn giỏi
như con rái. Anh Nhánh lặn đến một phút rưỡi là thường. Nhưng lần nầy thì không
thường bởi nước đã cạn lắm rồi, và chồng chị vừa than mệt.
Đếm thêm cho tới chín chục mà không thấy dạng
chồng, chị Nhánh quýnh lên và cúi xuống dòm mặt nước. Anh Nhánh gởi lên vài
bong bóng rồi số tăm tăng lên thật lẹ và nổi lên cũng thật lẹ.
Bỗng chị Nhánh kêu rú lên : cùng với số tăm
ấy, một màu huyết đỏ pha loãng trong nước, nhuộm hồng một vùng nước rộng gần
bằng cái nia. Chị vụt hiểu ngay rằng anh Nhánh chảy máu miệng, máu mũi, hoặc
máu tai gì đó và chắc chắn là anh đã ngất rồi.
Chị phóng lẹ xuống nước như con chim thằng
chài thấy cá. Chị lặn sâu độ già một thước là đụng phải đáy cát. Chị mở banh
mắt ra mà nhìn nhưng không thể thấy xa hơn bốn tấc. Chung quanh chị bóng tối
dày mịt, u u minh minh như trong rừng sâu. Nước sông không trong bằng nước biển
và ai có lặn sông mới biết rằng đáy sông dễ sợ hơn đáy biển vì bóng tối dưới ấy
có vẻ bí mật ghê lắm.
Chị Nhánh thuở bé tắm sông với trẻ con trong
làng, cũng thích lặn lội. Nhưng đã lâu rồi, chị không có chơi trò lặn cút bắt
nữa nên đâm nhát. Chị nghĩ đến những con thủy quái mà rùng mình. Mặc dầu vậy,
chị cũng đánh bạo sờ soạng tìm chồng. Chị chụp được thúng cát đầy, nhưng anh Nhánh
thì không thấy đâu cả. Nghe gần hụt hơi, chị Nhánh trồi lên để thở, rồi lại lặn
trở xuống.
Cồn cát rộng chừng bằng ba căn nhà, chị phải
lên xuống mấy lần mới mò khắp diện tích của nó, nhưng vô hiệu quả.
Tuy dưới đáy nước mà lòng dạ chị Nhánh nóng
như bị lửa đốt, vì thời giờ càng trôi qua, mạng chồng chị càng khó cứu. Thế nên
chị trồi lên lần chót rồi thót lên thuyền, đứng trên ấy mà la làng.
*
Xóm ở xa lắm, nên chị la cả buổi, rát cả cổ
họng mới nghe tiếng hú trả lời. Rồi từ dưới xóm, xuồng nhỏ đâm lên gần hai mươi
chiếc.
Những chiếc xuồng ba lá ấy tiến mau như ghe
chạy buồm và không mấy chốc, họ đã tới nơi.
- Gì đó chị Sáu ? Chú Tư Ngộ hỏi.
- Hu... hu... hu... bà con ơi, anh Nhánh ảnh
lặn mất rồi...hu... hu...
- Từ bao lâu ?
- Độ tàn hai điếu thuốc.
- Dữ hôn ! Sao không đợi tới chiều hãy la
làng cầu cứu.
Cả bọn bỏ
xuồng, mặc kệ nó trôi đi đâu thì trôi, đồng hè nhảy xuống sông tùm tùm.
Hai mươi người mà không ai mò thấy anh Nhánh
đâu cả. Khi cả bọn đều trồi lên đủ mặt, ông Dậu nói :
- Tôi độ nó nhẹ hơn thúng cát nên bị nước
cuốn, lăn ra hòm chảo ở bìa cồn.
- Ờ, có lẽ như vậy !
Rồi cả hai mươi người đều thót lên ghe của
anh Nhánh, dùng sào dài chống ghe ra khỏi nơi đậu, rồi mò kiếm ở chỗ sâu, cũng
bằng mấy cây sào dài ấy.
Họ xâm đáy sông bằng cây sào, lần theo dốc
lài của cái cồn; nó lài mãi hơn năm thước thì bỗng sụp xuống đột ngột. Chính
cái chỗ đất sụp ấy là cái mà ông Dậu gọi là “hòm chảo”.
- Gì đây
nè ? Ba Sang hô to lên.
- Gì đó ? Gì đó ?
- Hình như là nó ?
Có một điều này lạ lùng lắm là xúc giác
của con người dường như truyền qua vật chất vô tri giác được và mũi sào đụng
cái gì, người cầm sào có thể đoán được cái ấy thuộc loại nào.
Ba Sang nghe mềm mềm, tròn tròn và chú ấy
xâm thêm vài cái nữa rồi quả quyết :
- Nó rồi đây ! Tôi giữ sào, ai dài hơi, cứ
tuột sào xuống dưới ấy đem nó lên.
Thằng Tư dài hơi nhứt bọn, trong làng nó
chỉ kém có một mình anh Sáu Nhánh mà thôi. Chỗ nầy sâu hơn mười thước nên chỉ
có nó là đủ khả năng xuống đó để ôm cái xác nặng lên.
Giây lát sau, quả nhiên nó trồi lên: bên
hông, nó ôm xác Sáu Nhánh.
Hai ba người lại nhảy xuống nước, đỡ phụ
với nó còn bao nhiêu người khác đứng trên nầy, thòng tay xuống mà rước kẻ mắc
nạn.
Bếp lửa còn cháy và ông Dậu rinh cả chiếc
cà ràng ra phía trước mũi ghe, rồi bốn người khiêng anh Nhánh để trên ngọn lửa
mà hơ. Trong khi đó mấy người khác chống ghe vào bờ để có thể xốc nước anh
Nhánh. Khi ghe cặm sào vào bờ ở bến xuất phát khi sáng thì thằng Tư lực lưỡng
được ông Dậu chỉ định xốc nước. Thằng Tư mạnh như con trâu cổ, xách cẳng anh
Nhánh lên rồi đặt ngửa anh ta trên lưng nó, đầu anh trở xuống đất. Xong, nó
nhảy lên bờ với cục neo nặng ấy rồi chạy băng đồng. Nó chạy như vậy được nửa
tiếng đồng hồ thì hụt hơi, và biết trước rằng mình sẽ đuối sức, nó đánh một
vòng tròn để lúc không thở ra rữa thì trở lại chỗ cũ.
Một đống lửa đã được đốt lên tại bến ấy và
người ta lại hơ nạn nhân một hồi, rồi thằng Tư lại xốc nước một vòng băng đồng
nữa.
Nhưng anh Nhánh cứ lạnh trong giấc ngủ
ngàn năm. Anh chết không tên, không tuổi vì cái nghề xúc cát cất nhà cho những
người có tên tuổi ở.
Bình Nguyên lộc
No comments:
Post a Comment