Chuyện của một thời chinh chiến
Thà một phút huy hoàng
rồi vụt tắt
Còn hơn là le lói cả
trăm năm
Người lính giữa tháng tư
Đạn pháo,
hỏa tiễn của binh đoàn quân Bắc Việt (thuần là đơn vị quân đội Hà Nội) đang dội
xuống như mưa lũ ở Long Khánh. Cửa ngỏ phía đông-bắc dẫn vào Sài Gòn, nơi bản
doanh Sư đoàn 18 do Thiếu tướng Lê Minh Đảo giữ quyền tư lệnh. Vị tướng lãnh
thăng cấp cuối cùng (1) của quân lực để chứng thật cùng thế giới và lịch sử:
Những người lính đã chiến đấu thực sự. Tuy nhiên tất cả sự sụp vỡ ngày
30-4-1975 hoàn toàn vượt tầm đạn bắn ra từ nòng súng chiến đấu của họ.
Mặt đối mặt
qua bãi lửa:
Sau thành
công đánh chiếm Vùng 2 và Vùng 1 chiến thuật do sự rút bỏ hỗn loạn của quân đội
miền Nam, phía Bắc Việt rút kinh nghiệm từ Mậu Thân (1968) và Tổng công kích
Xuân-Hè 1972 quyết tâm tiêu diệt miền Nam qua chiến thuật tấn công từ một điểm xong mở rộng ra, tránh giao tranh
nếu gặp kháng cự mạnh để tất cả đồng nhất tiến về Sài Gòn. Mục tiêu
cuối cùng phải đánh chiếm của cuộc chiến tranh “giải phóng” ngụy danh.
Trung ương
đảng ra lệnh cho Trung ương cục miền Nam cùng tất cả lực lượng vũ trang phải
hoàn thành công cuộc giải phóng miền Nam: Xung phong tiến công Sài Gòn, mà hiện
tại kẻ thù đang tan rã, không còn sức mạnh chiến đấu. Chúng có năm sư đoàn, chúng ta có mười-lăm sư đoàn,
chưa kể đến lực lượng hậu bị chiến lược. Chúng ta phải chiến thắng bất cứ giá
nào: Đấy là quan điểm của trung ương đảng. Khi tôi (Lê Đức Thọ) rời miền Bắc,
các đồng chí ở bộ chính trị đã nói rằng: Đồng chí phải đoạt thắng lợi, đồng chí
chỉ trở về với chiến thắng.
Chiến dịch
Hồ Chí Minh được đặt tên qua công điện 37/TK do chính Lê Đức Thọ, chính ủy
chiến dịch phổ biến đến với tất cả lực lượng vũ trang đang có mặt tại miền Nam:
Mười lăm sư đoàn quân chính quy Bắc Việt. Những danh xưng nầy cần phải viết đủ
để trả lời cho quan điểm chiến lược từ Tòa bạch ốc, Ngũ giác đài, được phổ biến
khắp hệ thống truyền thanh, truyền hình thế giới trong bao năm qua: Chiến tranh
Việt Nam là do lực lượng Việt cộng (những người “quốc gia yêu nước Miền Nam”
hay MTGPMN nổi dậy lật đổ chính quyền VNCH), nếu lực lượng của Hà Nội có kể đến
chăng thì cũng chỉ chiếm một phần rất nhỏ, chỉ đóng vai trò “yểm trợ” vì 98%
của vấn đề (chiến tranh) là ở miền Nam chứ không là miền Bắc.
Chúng ta trở
lại chiến trường với Tướng quân Lê Minh Đảo và những người lính đang giữa trùng
vây của lửa. Ở mặt trận Long Khánh. Ngay từ ngày đầu của năm 1975, Sư đoàn 18
đã phải đối phó với tình trạng căng quân ra giữ vững vùng lãnh thổ trách nhiệm,
cùng tập trung lực lượng để chiếm lại phần đất đã bị lấn chiếm. Tiếng gọi là
một sư đoàn, nhưng tướng Đảo chưa hề tập trung đủ lực lượng cơ hữu để điều động
trong một cuộc hành quân quy mô cấp sư đoàn. Đầu tháng 3-75, Trung đoàn 48 lại
tăng phái cho Sư đoàn 25 trách nhiệm mặt trận Tây Ninh, cùng chung Vùng 3 chiến
thuật với Sư đoàn 18. Thế nên khi trận chiến bắt đầu 9-4-1975, ông chỉ có một
lực lượng sư đoàn (trừ). Trước khi trận chiến bùng nổ lớn, thiếu tướng Đảo yêu
cầu tư lệnh quân đoàn, Trung tướng Nguyễn Văn Toàn hoàn trả lại Trung đoàn 48,
khi nhận được trung đoàn này về, tướng Đảo xử dụng đơn vị để trấn giữ mặt đông
thị xã, đoạn đường từ Xuân Lộc đến thị trấn Giá Rai. Với quân số như trên, Sư
đoàn 18 quả thật đã gánh một nhiệm vụ quá khổ dẫu trong thời bình yên chứ chưa
nói về tình thế khẩn cấp của tháng 4-1975. Trước 1972, vùng nầy được tăng cường
một lữ đoàn thuộc lực lượng Hoàng gia Úc-Tân Tây Lan, Lữ đoàn 11 chiến xa do
đại tá Patton chỉ huy, chưa kể đến Sư đoàn Mãng xà vương Thái Lan tăng phái,
trách nhiệm vùng Long Thành, dọc Quốc lộ 15, đường đi Vũng Tàu. Sư đoàn 18 lại
là một đơn vị tân lập (chỉ trước Sư đoàn 3 BB của Vùng 1).
Trận thử sức
cuối cùng, tháng 4-1975 tại Xuân Lộc, Long Khánh là một dấu tích sẽ còn lại
muôn thuở với lịch sử. Chúng ta không nói điều quá đáng. Hãy nhìn sang phía đối
phương để thử tìm so sánh, từ đấy lập nên phần thẩm định chính xác.
Với ý định
vất bỏ Hiệp định Paris, quyết thanh toán miền Nam bằng vũ lực với trận mở màn
thử xem phản ứng của chính quyền, quân đội Mỹ: Tấn công Phước Long. Sau lấn
chiếm đóng Phước Long mà chính phủ Mỹ hoàn toàn im lặng, Tướng Hoàng Cầm trách
nhiệm tấn công Sài Gòn từ mặt đông bắc qua ngõ Long Khánh. Tướng Cầm có dưới
tay ba sư đoàn, chưa kể lực lượng địa phương (du kích), tương quan lực lượng
coi như 4 đánh 1. Nhưng cũng
không hẳn thế, tướng Hoàng Cầm còn được cả một bộ chính trị đảng cộng sản Hà
Nội trực tiếp chỉ đạo, yểm trợ và tăng cường với Văn Tiến Dũng, tổng tham
trưởng quân đội miền Bắc, Phạm Hùng, bí thư trung ương cục miền Nam, Lê Đức Thọ
ủy viên bộ chính trị, bí thư chiến dịch. Tất cả đang có mặt tại Lộc Ninh, nơi
chỉ cách chiến trường Xuân Lộc hơn 100 cây số đường chim bay. Thọ vừa đến từ Hà
Nội không phải theo “đường mòn Hồ Chí Minh” với ba lô trên lưng như cách “mô
tả” thành thạo trong những cuốn sách “nghiên cứu” về chiến tranh Việt Nam,
nhưng ông ta đến từ sân bay Nam Vang, đi xe hơi đến biên giới Việt-Miên, xong
dùng Honda chở tới Lộc Ninh. Trước những nhân vật kể trên, Trần Văn Trà, tư
lệnh khu 7 báo cáo về tình hình quân sự. Phạm Hùng hỏi về tiếp liệu đạn dược, viên
cán bộ phụ trách hậu cần trả lời: Báo cáo đồng
chí, ta có đủ đạn để bắn (bọn Ngụy) sợ đến ba đời.
Đấy không
phải là lời nói đùa, sau này khi thắng lợi nghiêng về phía VNCH, bộ tư lệnh mặt
trận đã cho thay thế tướng Hoàng Cầm bằng Trần Văn Trà, vốn là người chỉ huy
chiến trường miền Đông từ chiến tranh 1945-1954; và tăng cường thêm Sư đoàn
325, đơn vị tổng trừ bị quân đội miền Bắc, và Trung đoàn 95B biệt lập từ vùng
châu thổ sông Cửu Long kéo lên tăng cường, nâng tỷ số tác chiến (ban đầu) lên
thành 5 đánh 1.
Trận đánh:
Thiếu tướng
tư lệnh Lê Minh Đảo chuẩn bị chiến trường đến mức coi như là toàn hảo. Lấy kinh
nghiệm đau thương của những đơn vị bạn thuộc hai Quân khu I và II, ông nhận ra
rằng, sở dĩ các đơn vị nầy mất sức chiến đấu mau chóng vì không có người lính
nào còn được khả năng chiến đấu khi trong tay họ thay vì nắm chắc vũ khí bấy
giờ chỉ để bế đứa con nhỏ, lưng cõng cha, mẹ già. Bằng tất cả mọi phương tiện
có được, tướng Đảo cho di tản toàn bộ gia đình binh sĩ về hậu cứ Long Bình, một
hậu phương an lành, tương đối đầy đủ cho tất cả. Cất bỏ được nặng gánh gia
đình, người lính chỉ còn một hướng trước mặt, hướng địch quân tiến tới.
Pháo binh là
một yếu tố chiếm giữ phần lớn quyết định sự thắng, bại chiến trường. Một khuyết
điểm mà quân lực VNCH thường vấp phải là luôn tập trung pháo binh lại một địa
điểm để dễ chỉ huy, điều động. Nay tướng Đảo thay đổi chiến thuật, ông phân tán
pháo binh lên những cao điểm như Núi Thị (bên cạnh đường 20 lên Định Quán, đi
Đà Lạt), (cạnh Quốc lộ 1, đường về Biên Hòa), những cao điểm phía đông và đông
nam Xuân Lộc, nơi ngã ba Tân Phong (cũng là một vị trí di động của bộ chỉ huy,
phần sau của chiến trận, giai đoạn rút lui về Bà Rịa, Phước Tuy), dọc Tỉnh lộ 2
những vị trí pháo nầy sẽ yểm trợ vô cùng hữu hiệu cho đoàn quân di tản. Tuy
phân tán nhưng khi tác xạ, những vị trí pháo cùng bắn một lượt nên tập trung
được hỏa lực vào một mục tiêu mà địch không phát hiện được vị trí pháo bắn đi
(để phản pháo).
5 giờ 40
sáng ngày 9-4-1975 – “Giờ H của Ngày N”, chiến dịch đánh chiếm Xuân Lộc bắt đầu
với một trận mưa pháo 2.000 quả đạn từ nhiều vị trí cùng đổ xuống trung tâm thị
xã Xuân Lộc lập lại cảnh tàn sát của một ngày năm 1972, cũng buổi tháng 4 tại
An Lộc. Chính xác một giờ sau, 6 giờ 40, tám xe tăng đơn vị tiền phong Sư đoàn
7 tùng thiết xông vào trung tâm thị xã Xuân Lộc, nơi đặt bộ chỉ huy Sư đoàn 18.
Bắc quân ngỡ rằng sau đợt pháo hung hãn, và đội hình ào ạt, bề thế của những
chiếc T54, thế nào cũng sẽ tràn ngập mục tiêu dễ dàng như đã xẩy ra ở những mặt
trận “không cần giao tranh” nơi Vùng 1 và 2 của tháng 3 vừa qua. Nhưng hoàn
toàn không phải là như thế, những xe tăng nầy mắc kẹt giữa bãi mìn của một hệ
thống tám lớp kẽm gai và mìn bẫy mà thiếu tướng Đảo đã sẵn bố trí, không những
chỉ thế, những phi cơ A37 và F5 từ phi trường Biên Hòa được gọi đến chỉ sau ít
phút cất cánh, và trên đồng trống, giữa những khu rừng cao su đều đặn, đội hình
của toán quân tùng thiết, chiến xa trở nên thành mục tiêu lộ liễu, trần trụi.
Nhưng lính bộ binh của Trung đoàn 165 không nhận ra chỉ dấu thất bại, họ tiếp
tục tiến lên đợt xung phong thứ hai với những chiến xa còn lại.
Trung đoàn
48 đã đợi sẵn với “hỏa tiễn 2.75 ly” đặt trên giá hai chân (lưu ý hỏa tiễn 2.75
vốn là vũ khí cơ hữu của trực thăng vũ trang, sau khi quân đội Mỹ rút đi, khối
lượng hỏa tiễn nầy trở nên thặng dư, thiếu tướng Đảo biến chế thành vũ khí bộ
binh dùng để chống chiến xa bằng cách đặt trên giá tre hai chân, kích hỏa bằng
pin) bắn hạ ngay những chiến xa nầy trên tuyến phòng thủ cuối cùng. Mặt đông
của thị xã, dọc Quốc lộ 1, Trung đoàn 209 (cũng của SĐ7) số phận cũng không mấy
khả quan hơn bởi họ gặp một đơn vị đang cơn uất hận, Tiểu đoàn 82 Biệt động
quân của Thiếu tá Vương Mộng Long. Lính biệt động đánh để trả hận lần lui quân
bi thảm của tháng trước từ mặt trận Ban Mê Thuột, hai tiểu đoàn của Trung đoàn
209 bị chôn chân trước tuyến phòng thủ của 82 Biệt động.
Sau nầy
Hoàng Cầm ghi lại trận đánh trong Hồi ký lịch
sử quân đội nhân dân:
Những đợt
xung phong đánh vào sở chỉ huy của Sư đoàn 18 và hậu cứ Trung đoàn 52 ngụy đều
không thành công. Chiến sĩ ta giành giựt với địch từng đoạn giao thông hào, qua
mỗi căn nhà, căn phố. Điều đáng ngạc nhiên là cuộc tấn công đã bị chận lại
không phải chỉ do pháo binh và không quân yểm trợ, hệ thống phòng thủ vững chắc
và sức chiến đấu ngoan cố của Trung đoàn 43 ngụy, nhưng điều đáng nói là Đảo đã
tổ chức cho từng người lính thuộc sư đoàn mỗi một vị trí chiến đấu…
Viên tư lệnh
Trần Văn Trấn đi theo với Trung đoàn 266, đích thân chỉ huy cuộc tấn công. Tùng
thiết thoạt tiên mở được đường qua lớp kẽm gài, mìn bẫy thứ nhất tiến gần đến
vùng “Hố Heo Rừng”, nơi Quốc lộ 1 chạy một đường quanh gắt trước khi đổ vô thị
xã. Nhưng quả như ước tính của tướng Đảo, đại đội trinh sát của Đại úy Đa giăng
một hàng lưới lửa bằng đại liên 50 chống chiến xa, hiệp cùng máy bay AC119 Hắc
Long tự tầng trời đan kín thêm bằng đại liên minigun bốn nòng chống biển người
vô cùng hữu hiệu. Sư đoàn 341 vốn là một sư đoàn tân lập gồm tân binh thiếu
kinh nghiệm của đơn vị nầy quá hoảng sợ hỏa lực của đại đội trinh sát, phi cơ
Hỏa Long nên cuối cùng đám lính trẻ tuổi của Trung đoàn 266 phải tan hàng, chạy
vào lẫn trốn trong khu vực dân cư, bến xe, nhà thờ, trung tâm thị xã. Tổng kết
ngày chiến trận đầu tiên, chỉ riêng Sư đoàn 341 đã bị thiệt hại khoảng 600 chết
và bị thương, cùng một số tù binh (ba mươi người) bị bắt giữ. Buổi chiều, thiếu
tướng Đảo khi đi thanh sát mặt trận bên trong thị xã, ông không quên ra lệnh
cho phòng quân tiếp vụ sư đoàn trích một số khẩu phần lương khô để nuôi ăn đám
tù binh còn rất mới.
Bộ tư lệnh
Quân đoàn 4 vẫn không tin quân phòng thủ Xuân Lộc đứng vững sau hai cuộc tấn
công. 5 giờ 30 sáng ngày 11, đợt tấn công thứ hai bắt đầu. Sư đoàn 341 tiến
chiếm từ hướng tây bắc, Sư đoàn 7 từ mặt bắc đâm thẳng vào thị xã, Sư đoàn 6 từ
hướng đông, tất cả ba mũi dùi đồng hẹn ở điểm đến trung tâm thị xã, bộ tư lệnh
Sư đoàn 18. Kết quả cũng tương tự như ngày 9, có khác chăng thêm một số chiến
xa bị bắn hạ trên tuyến phòng ngự và một số tù binh bị bắt. Những ngày chẳng
mấy vinh quang nầy được Hoàng Cầm viết lại trong Lịch sử quân đội nhân dân: Trong ba ngày đầu tiên của
chiến dịch, Sư đoàn 7 bị tổn thất 300 chiến sĩ; Sư 341 thiệt hại 1.200. Cụ thể
tất cả pháo 85 và 57 ly đồng bị phá hủy. Cùng lúc Văn Tiến Dũng cũng phải thú
nhận trong Đại thắng mùa xuân:
Từ ngày đầu mặt trận Xuân Lộc đã diễn ra vô cùng gay go, ác liệt. Những sư đoàn
của ta. tổ chức nhiều đợt tấn công vào thị xã, đánh đi đánh lại để chiếm từng
vị trí, và phải đẩy lui nhiều cuộc phản công của địch.
Tướng Toàn
cố gắng giữ vững Xuân Lộc để có thế đão ngược tình thế. để “B52 có thể trở
lại!” Tướng Toàn xử dụng Lữ đoàn 3 Thiết kỵ của Chuẩn tướng Trần Quang Khôi từ
Trảng Bom cố mở đường tiếp cận với cánh quân Xuân Lộc. Tướng Toàn xử dụng Lữ
đoàn 1 Nhảy dù được Tiểu đoàn 3 Pháo binh dù trực tiếp yểm trợ. Cuộc hành quân
không vận lớn nhất của trận chiến thực hiện trong hai ngày 11, 12 đưa đơn vị
tổng trừ bị cuối cùng của miền Nam vào trận. Sự xuất hiện của lực lượng nhảy dù
tại trận địa đặt nên vấn đề nghiêm trọng đối với tập thể lãnh đạo bộ tư lệnh
chiến dịch. Chiều ngày 11-4, Văn Tiến Dũng, Lê Đức Thọ, Trần Văn Trà duyệt soát
lại kế hoạch tấn công theo chiều hướng mới. Dũng có ý kiến: Nếu địch tăng cường
lực lượng phòng thủ Xuân Lộc thì ta không cần phải tập trung lực lượng để tấn
công chúng nữa. Chúng ta nên xử dụng sức mạnh của mình để đánh những lực lượng
ngoại vi (hàm chỉ lữ đoàn dù) trước khi chúng đặt chân xuống đất. Cũng nên dùng
pháo tầm xa phá hũy căn cứ Biên Hòa để máy bay chúng không thể cất cánh.
Tóm lại, bộ
tư lệnh chiến dịch quyết định mở một mặt trận giả (để đánh lạc hướng quân phòng
thủ) bằng hai cuộc tấn công chính diện vào vị trí đóng quân của Tiểu đoàn 1/43
(có nhiệm vụ giữ thị xã) để phía VNCH nghĩ rằng phía Bắc Viêt vẫn cố công dứt
điểm Xuân Lộc theo như kế hoạch ban đầu. Trong khi chuyển hướng tấn công bằng
cách đi vòng Xuân Lộc để (thực sự) tiến thẳng về Sài Gòn. Trần Văn Trà thay thế
Hoàng Cầm để trực tiếp thực hiện kế hoạch. Ngày 13, Trà họp ban tham mưu Quân
đoàn 4 để thông báo về việc thay đổi kế hoạch với luận cứ: Địch tăng cường
phòng thủ Xuân Lộc sẽ gây nhiều bất lợi cho ta nếu cứ tiếp tục tấn công thị xã.
Thế nên, nếu chúng ta tiến chiếm Dầu Giây (trên Quốc lộ 1, lối về Biên Hòa) thì
Xuân Lộc không còn nằm trong tuyến phòng thủ của chúng nữa. Đồng thời ta xử
dụng pháo 130 ly pháo sân bay Biên Hòa thì địch sẽ bị hạn chế khả năng cho phi
cơ xuất kích yểm trợ.
Cũng quả
thực tướng Đảo không biết được sự thay đổi kế hoạch của Trung ương cục miền Nam
chỉ đạo từ Hà Nội. Nhưng ông làm đươc gì hơn với chức vụ tư lệnh một sư đoàn bộ
binh trong giờ phút nguy nan nhất của cuộc chiến. Không một ai trong bộ tư lệnh
Quân đoàn III ở Biên Hòa, có ý niệm địch sẽ siết chặt Biên Hòa-Sài Gòn với hai
gọng kềm (hướng bắc và đông) bằng cách cắt Quốc lộ 1 ở Dầu Giây và Quốc lộ 15 ở
Long Thành qua thay đổi quan niệm chiến thuật theo tình hình thực tế nên bỏ qua
Long Khánh nơi họ đã thực sự thất bại và biến thất bại nầy thành một kế nghi
binh. Kế sách nầy càng thêm hữu hiệu khi mặt trận được tăng cường thêm hai đơn
vị mới, Sư đoàn 325, tổng trừ bị quân đội miền Bắc, đơn vị chủ lực trong trận
tấn công Nha Trang, Phan Rang ngày đầu tháng 3.
Chiến trận
lắng xuống, các đơn vị Bắc quân dần rút đi, chỉ còn pháo kích cầm chừng vào các
vị trí phòng thủ. Ngày 20-4, tướng Toàn đích thân đến giao cho tướng Đảo một
lệnh mơ hồ: Rời bỏ Xuân Lộc về bảo vệ mặt trận Sài Gòn. Hoá ra Bắc quân đã hoàn
tất kế sách bỏ trống Xuân Lộc từ một tuần trước. Thiếu tướng Đảo phản đối,
nhưng viên tướng tư lệnh khẳng định: Đó là lịnh của ông Thiệu! Tướng Lê Minh
Đảo chỉ có đúng nửa ngày để hoàn tất một kế hoạch rút quân. Hành quân rút lui
là hình thái hành quân khó nhất. Bởi đã mang sẵn mầm thất bại. Những danh tướng
của quân sử thế giới mấy ai thực hiện được kể cả Hốt Tất Liệt, Napoléon,
Rommel. Nhưng như phép màu, thiếu tướng Đảo đã hoàn tất cuộc lui binh về Bà
Rịa, bảo toàn đơn vị, vũ khí, thậm chí đến hai khẩu pháo 175 ly hạng nặng cũng
giao lại đủ cho quân đoàn.
Khi Dương
Văn Minh ra lệnh đầu hàng, buông súng, Thiếu tướng (1) Lê Minh Đảo dừng quân
trên xa lộ Biên Hòa, nhìn vào hướng trường Bộ binh Thủ Đức, Long Thành, Bà Rịa,
và xa kia Xuân Lộc, Long Khánh, gần hơn là nghĩa trang Quân đội. Ông thấy thấp
thoáng bức tượng “Tiếc thương” tạc hình “Người lính chờ đợi” in hình trong
không gian mờ khói đạn.
Người lính
cuối cuộc chợt thoáng nhớ những lời thơ ngắn,
Vì anh là lính áo rằn.
(2)
Ra đi nào biết mấy trăng mới về…
Ra đi nào biết mấy trăng mới về…
(Phan Nhật
Nam)
(1) Sau trận
Xuân Lộc, tướng Đảo được Tổng thống Trần Văn Hương thăng cắp thiếu tướng.
(2) Những
câu thơ trên của em Chuẩn tướng Lê Minh Đảo, Trung tá Lê Hằng Minh, tiểu đoàn
trưởng Tiểu đoàn 2 TQLC “Trâu Điên”, người lính đã ra đi từ một ngày hè năm
1966 nơi chiến trường ở chân cầu thuộc Phong Điền, Thừa Thiên. (Phan Nhật Nam)
Phi Ngọc Hùng
tạp ghi sau
40 năm304Đen – Llttm - VT
No comments:
Post a Comment