Còn Có Chỗ Nhánh Sông Rẽ
Muộn
Để tặng người có tên
PTTQ
1.
Thằng bé đứng lấp ló từ xa, bên cạnh
cái giường ngủ nhỏ kê đầu đường ra vào, lấm lét nhìn, không như những đứa trẻ
khác, trai có gái có, ồn ào nói cười, lăng xăng vây quanh đám người vừa xuống
chiếc xe đò lớn đậu ngoài sân rộng, đang bận rộn hối hả, sắp xếp mấy cái túi
xách đầy ắp đồ đạc trên hai cái bàn dài, được đặt dọc theo tường vào lúc sáng sớm.
Hậu lấy làm lạ, đưa mắt nhìn bà sư cô trọng tuổi hướng dẩn ngầm hỏi, bà mĩm cười,
rồi bỏ đi lại gần nó, nói gì đó, nó tủm tỉm theo sau bà. Bà cho biết nó tên
Minh, sắp tròn ba tuổi, ít nói, nhút nhát và ít khi chơi đùa như những đứa khác,
kể từ ngày người ta đưa nó về Làng cô nhi Long Thành lúc mới lên hai. Không giống
như những người bạn khác, họ lập nhóm thăm viếng trẻ em mồ côi ở đây từ năm đầu
đại học, nhất là mấy chị bên trường Quốc Gia Sư Phạm, họ nhanh nhẹn, chạy tới
chạy lui, kéo em này em kia ra sắp hàng ngay ngắn để nhận quà, vì mới lên đây lần
đầu nên Hậu có phần lúng túng, nhưng rồi mọi việc đâu cũng vào đó. Theo lời sư
cô, ở khu này có tất cả ba mươi mấy em, đứa lớn nhất lên năm, đứa nhỏ nhất lên
ba và cùng được xếp học chung một lớp mẫu giáo.
Nắng lên dần từ
phía dưới xa, cuối con đường ngoằn ngoèo chạy ra quốc lộ đi Vũng Tàu, ở trên đồi
trời đã có chút hơi ấm đầu ngày. Bên dãy nhà trong, chuông chùa chầm chậm đổ từng
tiếng kéo dài theo bóng mặt trời lên. Đám trẻ theo người lớn chạy túa ra sân, từng
đôi từng cặp ríu rít tươi cười, mặt mày hớn hở, tay cầm gói quà mới được, mở ra
đưa cho nhau xem hộp bánh tây, cây kẹo ngọt mà chúng nó có. Bà sư cô đứng trò
chuyện với vài anh chị ở một góc sân. Đám trẻ vừa ăn vừa chạy đuổi nhau theo
bóng mình rung rinh dưới nắng sớm. Hậu nhìn quanh, thằng bé Minh tay cầm gói
quà chưa mở, đứng sớ rớ một mình ngay bìa cửa ra vào, miệng cười nhẹ mà không
chịu nhập bọn với các em khác. Hậu đi lại, ngồi xếp bằng dưới thềm xi măng, thằng
bé Minh đứng yên nhìn, Hậu nhẹ nhàng kéo nó ngồi xuống sát bên mình, lấy gói
quà của nó đang có trên tay mở ra, xé hộp bánh tây đưa cho nó, thằng bé cầm lấy
một cái đưa lên miệng, nhìn ra sân nắng ăn một cách ngon lành. Nhìn kỹ hơn, Hậu
thấy thằng bé dễ thương quá nhất là cặp mắt to đen thăm thẳm và cái miệng như lúc
nào cũng muốn cười. Hậu hỏi han thằng bé này nọ, nó gật đầu lắc đầu, trả lời tiếng
được tiếng không ngoại trừ hai tiếng chú Hậu thật rõ, không bao lâu hai chú
cháu nắm tay, đi qua đi lại chỉ chỏ chỗ này chỗ nọ, thằng bé cười khục khặc.
Ở lại đó tới sau giờ
ăn trưa, nhóm người thăm viếng lục đục ra về, nắng hậm hực lên cao, trời đã nóng gắt từ lúc giữa ngày, ở một
phía thấp lưng chừng đồi hiện rõ một màu cây cỏ úa của những ngày đầu Thu.
Không khác gì những lần trước, cũng bịn rịn cũng buồn buồn, mấy đứa bé vây
quanh chiếc xe đò, bóng duỗi mình theo chiều nắng vắt ngang xe, khoanh tay cúi
đầu dạ chào cô chào chú, những bàn tay nhỏ nhắn nằm gọn trong tay người lớn
chưa chịu buông. Hậu bồng thằng bé Minh lên, hôn trên cái má căng tròn, một cái
hôn thật dài mang theo mùi thơm của nắng cháy từ cánh đồng vàng một màu hoa cỏ
dại. Hậu là người cuối cùng lên xe, bà sư cô nắm tay thằng Minh đứng ra xa, chiếc
xe nổ máy rồi chậm chạp, trở đầu lăn bánh xuống đồi, để lại phía sau những cái
vẫy tay, chưa biết mõi của đám trẻ, mờ khuất dần theo từng khúc quanh ngoằn
ngoèo chạy dài trên con đường vừa có chút bụi đỏ.
Hậu mượn xe Honda của Tuấn, thằng bạn con nhà
giàu nhà ở Biên Hòa, cùng học năm thứ ba, trở lại làng cô nhi Long Thành vào
sáng thứ bảy một tuần sau đó, thăm thằng bé Minh lần nữa với bộ quần áo mới, mà
anh đã mua từ sạp bán vải quen của chị Hòa trên lề đường Lê Lợi, gần ngã tư có
xe nước mía Viễn Đông. Từ sau ngày ở trên đó về, hình ảnh thằng bé Minh, đứng lủi
thủi một mình trong góc phòng với cái nhìn ngơ ngác, ngây thơ cứ loanh quanh
đâu đó trong đầu, Hậu bổng dưng thương và buồn cho nó, giống cái buồn đã đeo đuổi
chuỗi ngày đơn độc mồ côi nghèo khó của mình từ những ngày bằng tuổi nó. Hậu
quyết định nhận thằng bé Minh làm con đở đầu, mà không nói gì với ai. Ngoài những
lúc đi chung với nhóm bạn độ ba bốn tháng một lần, cứ cách hai ba tuần là Hậu
mượn xe Honda chạy lên Long Thành, hai chú cháu chơi đùa, tập viết tập đồ chữ
này chữ kia cả buổi trời. Rồi thằng bé bớt đi nhút nhát, nó cao lớn dần, nói
năng nhiều hơn, biết hỏi chú Hậu câu này câu nọ, cũng như không còn đứng ở góc
phòng như những ngày trước kia nữa. Hôm sinh nhật mừng bốn tuổi, với số tiền đi
dạy kèm, để dành mấy tháng qua, Hậu ra sạp bán đồ chơi ngoài chợ Bến Thành mua
cho thằng bé Minh chiếc xe chữa lửa có còi hụ khi đẩy nó chạy. Nhìn thằng bé ôm nó khư khư trong tay, cầm chạy
vòng quanh khoe đám bạn Hậu thấy lòng mình tràn ngập một niềm vui khó tả.
Mùa hè năm nay qua
mau hơn năm ngoái, hàng Phượng già dọc theo đường Cộng Hòa xem ra không còn
cánh hoa nào chịu làm đời nở muộn. Đường về bỗng vội vã thiếu cái nắng “tím chiều
hoang biền biệt” đón đưa của trời Sài Gòn, thường có đôi ba cơn mưa về ngang bất chợt. Sách vở vẫy tay chào nhau, kỷ niệm một
thời áo trắng mực đen trả lại ghế giảng đường sau những năm dài miệt mài ôm giấc
mơ “công hầu khanh tướng”. Tốt nghiệp, Hậu được bổ nhiệm về dạy Việt Văn cho lớp
đệ nhị của trường trung học Tống Phước Hiệp ở mãi tận Vĩnh Long, đường dài sông
nước. Hôm lên Long Thành thăm thằng bé Minh trước ngày đi, Hậu mang theo cái hộp
giấy cạt-tông cứng, gói quà cho nó, đựng bộ đồ bi-da-ma mới, đôi giày săn-đan
da nhỏ nhắn màu nâu đậm, hai ba hộp bánh lạt và hộp bi đá đủ màu mà anh ta mất
mấy ngày lòng vòng chọn tới lựa lui ngoài chợ Bến Thành. Cũng như mọi lần, dựng
cái xe Honda dưới bóng cây trước khu nhà của đám trẻ xong, Hậu nhanh chân đi đến
dãy giường ngủ, không thấy thằng bé Minh ở đó, Hậu loanh quanh tìm kiếm nhưng vẫn
không thấy nó đâu đây. Trên đường ngược lên chỗ làm việc của bà sư cô, Hậu được
chị quét dọn cho hay, sáng nay bà có xuống dẩn thằng bé đi lên văn phòng chính
rồi mà chưa thấy trở lại.
Nghe tiếng bà sư cô
gọi, Hậu lùi lại nhìn vào trong, thằng bé Minh đang ngồi bên cạnh một người con
gái trẻ tóc dài khá đẹp, miệng bi bô gì đó, không có vẻ gì buồn trong phòng tiếp
khách. Bước vào, chưa kịp bỏ thùng quà xuống thì thằng bé bỏ chạy ùa tới nắm
tay Hậu lắc qua lắc lại như mọi lần. Hậu bồng nó lên, nó ôm cổ anh ta cười
thành tiếng. Bà sư cô, theo sau ông tư Sử, người giám đốc của làng cô nhi, từ
trong phòng làm việc bước ra, ông bắt tay Hậu cám ơn chuyện nhận thằng bé Minh
làm con đở đầu và lo lắng cho nó suốt một năm qua. Hậu bỏ thằng bé xuống, ông
xoa đầu nó khen giỏi, nhìn về hướng người con gái lạ, ông chưa kịp nói gì thì
bà sư cô đã lên tiếng trước, giới thiệu cô con gái là mẹ ruột của thằng bé
Minh, ông tư Sử gật đầu cười nhẹ mà không nói gì thêm, chào mọi người rồi bỏ đi
ra ngoài. Ngoài sân nắng lên cao từ lâu, lưa thưa đâu đó một vài cụm mây xám nhỏ
đong đưa theo chiều gió sớm trên bầu trời xanh biếc một màu của ngày cuối Hạ.
Bà sư cô cũng đi ra sau đó không lâu trước khi nhắc, nếu Hậu có cần gì thì gặp
bà dưới khu nhà của đám trẻ. Hậu gật đầu chào nhìn theo, chưa biết phải bắt đầu
câu chuyện với người con gái chỗ nào vì cái ngạc nhiên bất chợt cộng một chút
ngỡ ngàng, vẫn còn đang quẩn quanh đâu đó trong đầu, từ khi được giới thiệu cô là
mẹ của thằng bé Minh.
Quyên, mẹ của thằng
bé Minh, tuổi độ chừng không quá hai mươi, là học sinh giỏi lớp đệ nhị ban C của
trường nử trung học Lê Văn Duyệt, gần ngã tư Bảy Hiền một vài năm trước. Sau lần
sinh hoạt chung, làm báo Xuân với trường trung học Mạc Đĩnh Chi ở Phú Lâm,
Quyên gặp Thế , anh học trò lớp đệ nhất, chủ bút của đặc san năm đó, rồi hai
người yêu nhau. Cũng như những mối tình được đất trời tạo nên từ thuở “tạo
thiên lập địa”, họ cũng có hẹn hò, có thề nguyện chuyện trăm năm cho riêng mình
ở ngày mai ngày mốt. Họ góp nhặt những kỷ niệm tình, từ con đường đi bên nhau
dưới mưa lá me bay đến những chiều ngồi tay nắm tay, ở một quán nước bên lề, thầm
mong màn đêm đừng xuống, xếp kín vào đôi tim đong đầy thiên đường mơ ước. Cuối mùa thi năm đó, trên gác trọ của Thế ở đầu
chợ đường Hậu Giang, trong một chiều mưa dầm, trời đất mù mờ như sương khói từ
giữa trưa, Quyên đã trao cho Thế những gì quý nhất của đời người con gái hòa
cùng nhịp thở tận cùng và ngút ngàn hạnh phúc như một cơn bão nổi.
Sài Gòn lại bắt đầu
có biểu tình chống chánh quyền do một số các nhóm hay phong trào thiên tả, thân
cộng, thành phần thứ ba thứ tư, trong đó có sinh viên học sinh gây ra trên nhiều
đường phố, nhất là sau những ngày của mùa hè đỏ lửa. Ngày có kết quả tú tài
hai, Thế có mặt trong đám đông người, biểu tình vây kín trụ sở Ủy Ban Quốc tế
Kiểm soát Đình chiến ở góc đường Lý Thái Tổ và Nguyễn Hoàng, xế phía bên này của
Tổng nha Cảnh sát Đô Thành, hô hào phản chiến đuổi Mỹ. Cảnh sát Dã chiến được
huy động đến giải tỏa, có dùi cui, xô xát và có súng nổ. Thế không may bị
thương nặng vì trúng đạn, được xe cứu thương đưa vào bệnh viện Bình Dân trên đường
Phan Thanh Giản nhưng đã chết vài giờ sau đó. Gia đình đem Thế về chôn ở quê
nhà, cuối đường ngã ba Chợ Đệm. Quyên đau đớn tột cùng, mang theo cái bào thai
chưa tròn ba tháng, lặng lẻ theo sau đám đông học sinh trường Mạc Đĩnh Chi đưa
Thế ra nghĩa địa nghèo nàn, cây lá cằn cổi giữa cánh đồng nằm quanh, mùa nào
cũng lấp sấp phèn chua nước mặn. Chuyến xe đò cuối cùng, Long An về Sài Gòn đã
chạy ngang qua từ lâu lắm rồi, Quyên vẫn còn đứng khóc sụt sùi trước mộ, Quyên
đã mất đi một người tình, một người chồng mà chỉ có mỗi riêng mình cô ta hiểu.
Quyên thôi học, bỏ
trường, khăn gói về nhà người dì ở quê mẹ tại Chợ Bún, Bình Dương chờ ngày sinh
nở, sau khi nói dối với gia đình là lên Đà Lạt làm cho một công ty tư nhân lớn,
sẽ về thăm khi được nghỉ phép. Sau ngày thằng bé Minh chào đời, nhờ phụ giúp
người dì trong những ngày chờ sinh, với số tiền dành dụm được, Quyên gởi con
vài ngày, trở lại thăm nhà như đã hứa với chút quà mua từ chợ Bá Chiểu. Năm thằng
bé Minh sắp tròn hai tuổi, lần này Quyên bồng thằng bé theo, cũng nói về thăm
bà ngoại, nhưng mang con đến làng cô nhi Long Thành như quyết định mà cô đã giữ
kín từ lâu.
Giờ cơm trưa, Quyên
chạy đi chạy lại, đút cơm cho con, vì thằng bé Minh không chịu ngồi yên một chỗ,
trông cô vui ra mặt. Hậu gặp bà sư cô, hai người đứng ở một góc sân, dưới mái
hiên nhìn vào, bà cho biết là thằng bé Minh được Quyên rước về chiều này, không
còn ở đây nữa, mọi thủ tục đã làm xong. Hậu bổng dưng thấy lòng chợt như muốn
khóc, khóc vì không biết là có còn dịp để nhìn thấy lại thằng bé nữa hay không,
nhưng cũng bổng dưng vui, vì rồi từ nay, thằng bé đã có mẹ, cái hạnh phúc nhất
của đời người mà đám bạn của nó ở đây khó tìm ra được. Cơm nước xong, biết là
có nấn ná lâu hơn cũng không được gì, Hậu gọi, thằng bé Minh chạy ùa lại, Hậu bồng
nó lên, hôn vào má, cái hôn từ biệt rất dài trong hy vọng nó sẽ không là cái
hôn lần cuối, thằng bé Minh ngây thơ cười chúm chím như ngày hai chú cháu mới gặp
nhau. Xin bà sư cô tờ giấy nhỏ, Quyên viết vội địa chỉ nhà, rồi nói khẻ hy vọng
có ngày nào đó mời Hậu ghé qua, Hậu đưa thùng quà cho cô ta rồi cầm lấy tờ giấy
cám ơn mà không hẹn. Hậu chào ra về, thằng bé Minh lững thững nắm tay Quyên và
bà sư cô đi theo sau một đoạn đường, cho tới chỗ dựng xe Honda đầu cổng. Trời
ngấp nghé xế chiều, nắng bùi ngùi trãi dài, bóng ba người nghiêng nghiêng đổ trên
cái sân rộng giữa đồi, gần tới ngã rẽ ra quốc lộ Hậu quay lại nhìn, họ vẫn còn
đứng ở đó.
Trên đường trở xuống
Vĩnh Long sau mấy ngày về Gò Dầu nghỉ Tết, ngồi uống cà phê tại cái quán quen cũ
trên đường Vạn Hạnh, chờ người bạn đưa ra xa cảng Phú Lâm, người đàn bà trẻ có
mái tóc dài khỏi vai, dẩn thằng bé trai dễ thương cười nói với nhau, thong thả
ngang qua, Hậu chợt dưng thấy lòng mình ray rứt nhớ thằng bé Minh quá. Đã hơn nửa
năm, kể từ ngày không còn trở lại làng cô nhi Long Thành, bận bịu với công việc
của một ông thầy giáo mới ra trường, Hậu quên bẳng đi chuyện thằng con đở đầu
mà ngày nào đây, không thấy nó thì nhớ gay nhớ gắt, đếm ngày đếm giờ mong đi gặp
cho được. Bây giờ nhớ thì nhớ để mà buồn vậy thôi. Thằng bé Minh chắc có lẽ
cũng đã quên dần hình dáng chú Hậu trong cái đầu non nớt dễ quên hơn là dễ nhớ.
Miếng giấy nhỏ có địa chỉ nhà Quyên, vẫn còn nằm yên, giữa một trang nào đó của
cuốn sách vứt đâu đây trong phòng trọ, hình như chưa có lần nào Hậu định tìm
xem lại. Trời bổng dưng mát, nắng trở mình dịu dàng đâu đó rồi bỏ đi, mưa về
ngang lất phất bay man mác như bụi phấn. Chuyến xe đò chót về Vĩnh Long trở
mình ra khỏi bến, bỏ lại Sài Gòn sau lưng không một chút gì bịn rịn, luyến tiếc.
2.
Buổi sáng, trời không
mưa như những ngày qua nhưng sương mù giăng kín, từ ngoài phía biển vào, vắt
ngang đầu dãy nhà ngoài của trại tỵ nạn tạm cư Kijiang, nằm sát cạnh ven bờ.
Chưa kịp uống xong ly cà phê đen, nghe tiếng người nhốn nhào ồn ào, Hậu vừa định
đứng dậy xem, vợ chồng chị Tươi, ở căn nhà bên cạnh nói vọng qua là có một chiếc
tàu của người mình mới tấp vô, cảnh sát Nam Dương đang kiểm soát ở dưới. Gọi là
trại tỵ nạn cho có vẻ xôm tụ, thật ra nơi này chỉ là khu đất nối dài từ phía
trong phố quận nhô ra bờ biển, ngó ra năm ba cái đảo nhỏ khác xa xa, cũng có
người dân địa phương sinh sống, lác đác chung quanh. Trừ cái nhà lợp tôn rộng lớn,
trước là kho hàng bỏ hoang của một công ty khai phá chất bô-xít, được sửa sang,
sắp xếp lại cho người ở, phần còn lại là các dãy nhà dựng san sát nhau bằng cây
với ván, dọc theo đám đất cao, chạy dài quanh ven bờ và mấy con đường đất mòn bằng
phẳng ở giữa, vốn đã có từ lâu lắm rồi, cho con số khoảng trên dưới gần bảy tám
trăm người. Lưa thưa vài chục cây cao lớn, xen kẻ đâu đó như cố che cho người ta
một chút bóng mát dưới cái nóng hừng hực của đất trời Nam Dương. Người đến trại
này là những người trên các chiếc tàu đánh cá nhỏ từ miệt bờ biển phía Nam miền
Nam ra đi, sau những ngày nhấp nhô trên sóng lớn, trong mưa sa gió gào. Trại
không có rào, ai muốn lội bộ ra phố xá của quận hay lên chợ tỉnh trên Tanjung
Ungat, cứ tự nhiên đón xe taxi mà đi, không ai làm khó làm dễ.
Bỏ ly cà phê xuống
cái ghế cây ọp ẹp, cũng như mọi lần, kể từ ngày đến trại gần hơn một năm qua,
không có gì làm, Hậu lửng thửng cùng mấy
anh chàng độc thân đi câu cá biển sớm về ngang, ra đứng trên mõm đồi cao nhìn
xuống bên dưới bờ cát. Đám người của chiếc ghe mới tới, già trẻ lớn bé, chừng độ
sáu bảy chục, bồng bế nhau, rã rời, mõi mệt sắp thành hàng dài theo sau anh cảnh
sát Nam Dương đi lên chỗ căn lều từ dưới bờ biển, bỏ lại chiếc tàu bạc màu, cũ
kỹ, nằm nghiêng qua ngã lại, chòng chành theo chiều con sóng buổi sáng vừa lên.
Người trong trại, trên dưới gọi nhau ơi ới, chạy tới ngồi đứng đông nghẹt xung
quanh căn lều, mặc sức mặc tình hỏi thăm đủ chuyện. Trời bắt đầu có một vài vạt
nắng giữa trưa, thêm đôi chút bụi đất đỏ, lác đác trên một khoảng sân rộng giữa
trại, đong đưa nhè nhẹ theo chiều gió từ ngoài biển vào.
Nghe có tiếng người
mình hỏi nhau, đi ra từ tiệm bán đồ nhà bếp sát bên, Hậu chần chừ, tò mò đứng lại
trước cửa bưu điện quận Kijiang thay vì định đi về trại ngay như đã tính. Đám
người chừng bốn năm cô gái dắt một thằng bé trai khoảng năm sáu tuổi, cười cười
nói nói đi ngang qua, chăm chú chỉ chỏ vào mấy tấm ảnh lớn, dán trên cửa kiếng của
một tiệm chụp hình bên kia đường. Hậu lững thững đi sau họ một khoảng không mấy
xa, thằng bé buông tay chạy trước, tiếng ai đó trong đám gọi lớn “Quyên coi chừng
thằng Minh” làm Hậu đứng khựng lại, giựt thót mình, nói thầm “không lẽ là thằng
bé Minh”. Cùng lúc mấy người con gái đi chậm lại thì Hậu cũng vừa đến gần,
Quyên ngờ ngợ nhận ra, cô nắm tay thằng bé kéo về phía Hậu đứng, mừng rỡ nói
như nghèn nghẹn “Minh ơi, chú Hậu, chú Hậu”. Hậu ngồi xuống thấp, thằng bé bỏ
tay mẹ ra, chạy ùa tới, ôm chầm lấy, Quyên lặng thinh, những người còn lại trố
mắt ngạc nhiên nhìn, không ai nói một lời. Quyên nhìn Hậu rồi nhìn con, mắt cô
rươm rướm đỏ, Hậu cũng không khác gì hơn, hình như mình đã khóc. Thằng bé Minh
nắm tay Hậu cười khúc khích bỏ đi trước, đám con gái chầm chậm phía sau chờ qua
đường. Ở một phía xa, trời có chút khói lam, tỏa ra lờ mờ, quyện vào cái lạnh nhè nhẹ của sương chiều, từ
ngoài biển về ngang, đan thành từng vệt ở cuối đường về lại trại Kijiang. Đêm đó,
lần đầu trong những ngày sống tạm ở đây, Hậu đã thức một đêm dài, chờ sáng.
Gió biển từ ngoài khơi thổi vào, làm dịu
đi phần nào cái nắng nung người của những ngày giữa mùa Hạ. Hậu xách túi đồ vừa
đủ nặng đi trước, hai mẹ con thằng bé Minh phía sau, hối hả theo nhóm người vừa
xuống chuyến xe buýt, chỡ người tỵ nạn có tên trong danh sách đi định cư ở Pháp
từ trại Kujiang lên Tanjung Ungat đến trễ giờ, xuống chiếc tàu lớn như chiếc
phà du lịch, có nhân viên của phái đoàn Pháp đứng chờ, đưa họ qua Tân Gia Ba, chuẩn
bị đón chuyến máy bay Air France đi Ba Lê sáng sớm ngày mai. Người sĩ quan cảnh
sát Nam Dương đứng ở một phía gần cuối cầu tàu vẫy tay chào, tàu chầm chậm tách
bến, nhấp nhô theo từng con sóng lớn ngoài biển vỗ thành tiếng. Hậu nắm tay
Quyên, nhìn nhau rồi cùng nhìn ở một phía xa xa, thành phố Tân Gia Ba hiện rõ dần
trong tầm mắt, Hậu kéo thằng bé Minh vào giữa người, thằng bé ôm lấy Hậu nũng nịu
hai tiếng “chú Hậu” dễ thương của những ngày ở Long Thành năm đó. Quyên đứng bên,
mĩm cười nhìn, gió ngoài kia lùa tóc nàng bay dài từng sợi lẻ, bồng bềnh theo những
con sóng biển san sát nhau, gọi nhau về bờ, nơi ở đằng sau đó cũng còn có chỗ
nhánh sông rẽ muộn.
(Người viết tự dựng bối cảnh và nhân vật, xin thứ lổi cho những trùng hợp vô tình nếu có)
No comments:
Post a Comment