CUỐI NĂM
Ở ĐỒNG BẰNG
Châu thổ mang mang trời nước sát
Hồn chùng hiu hắt nỗi không tên. (Tô Thùy Yên)
Đoàn tàu lầm lủi rời chợ Phước Xuyên, chạy về phía
Tuyên Nhơn, rồi âm thầm thả trôi vào điểm kích. Trời đêm cuối tháng chạp yên
tĩnh đến rợn người. Bóng cây hai bên bờ rạp chúi vào dòng kinh làm thành vệt
đen mờ chập chờn trước mặt.
Đoàn tàu như bị nuốt trửng vào cuống họng đang hả
lớn của một con rắn khổng lồ. Quấn mình trong chiếc mùng nhà binh, tôi nằm lăn
trở trên nóc phòng lái của chiếc giang đĩnh vì muỗi Đồng Tháp cứ mãi vo ve bên
tai. Tiếng nước vỗ nhè nhẹ vào thành tàu nghe như tiếng vọng từ một đêm biển
lặng xa vời. Lời kinh giảng từ loa phóng thanh của ngôi chùa Phật Giáo Hòa Hảo
từ phía chợ theo gió đêm lãng đãng vọng về. Điệu hò phương Nam chở lời kinh sâu
lắng vào lòng người nghe. Ngôi chùa nằm bên bờ kinh tắc nối liền Phước Xuyên
với Mỹ An, mỗi lần tàu chạy ngang bóng người ni cô chống xuồng hái sen, áo nâu
sồng thấp thoáng cuối hàng điên điển bông vàng sao thanh thoát quá…
Cành sen lá trĩu sương trong
Áo ni xám hạt trời nong buồn về
Tay nào nghiêng nón thơ che
Tay nào lần chuỗi bồ đề xanh xao… (Phạm Thiên Thư)
Bóng ngôi nhà cuối cùng của khu dân cư lờ mờ hiện
ra trong bóng đêm. Tôi chồm người vói lấy cái ống nói liên hợp gọi dặn ba chiếc
tàu đi sau quan sát cẩn thận. Cách đây không lâu du kích về đào hầm sát theo bờ
kinh ngay trước ngôi nhà, bắn vào tàu tuần làm bị thương hết mấy người lính.
Ngôi nhà hiện nay gần như không có ai ở. Bà mẹ thỉnh thoảng về quét dọn cho đỡ
hoang vắng. Đứa con gái đã lấy chồng lính Giang Đoàn. Tháng trước Phát thuyên
chuyển về tàu biển nên con Mười cũng khăn gói lên Sài Gòn ở với gia đình bên
chồng.
Tiếng khè khè từ ống liên hợp chợt đứt quãng bởi
giọng Huế nhỏ nhẹ đang gọi tên nhà binh của tôi. Người trưởng đồn Địa Phương
Quân mới về nhậm chức muốn được gặp tôi. Giọng Huế hiền như con gái của người
Sĩ Quan Thủ Đức mới ra trường đã gây cho tôi không ít tò mò.
Trong màu lục nhạt huyền ảo của chiếc ống dòm hồng
ngoại tuyến, dãy rào phòng ngự quanh đồn dựng bằng cây tràm và bốn vọng gác
thấp lè tè trông quá mỏng manh. Tôi gọi máy cho những tàu đi sau tấp vào bờ đối
diện của đồn lính. Người lính gác lúi húi rọi đèn bấm tìm cái neo phụ kéo chiếc
tàu tấp vào bến nhỏ dựng bằng mấy tấm vỉ sắt công binh trước cổng đồn.
Ông Chuẩn úy trưởng đồn đứng nghiêm chào. Mấy tháng
Thủ Đức đã tập cho người sĩ quan mới ra trường có cái chào đúng cung cách nhưng
dáng dấp thư sinh vẫn còn rõ nét trên khuôn mặt thanh tú. Câu chuyện nổ giòn
khi tôi biết được Tấn là người Phú Cam. Tấn cười ngạc nhiên.
– Nghe Trung úy nói chuyện cứ tưởng là người Nam
chớ đâu có biết là dân Bến Ngự.
Hai người ngồi nói chuyện Huế đến quá nửa đêm. Quán
cà phê nhỏ gần cầu Bến Ngự dưới chân con dốc đi về Từ Đàm vẫn còn. Quán cà phê
mái tranh tôi vẫn thường ngồi chờ o tôn nữ đi học về. Ngôi nhà trên đỉnh dốc
với hàng chè tàu kín cổng cao tường.
– Chị Lựu có chồng rồi, đám cưới năm ngoái. Hai vợ
chồng cùng dạy ở Kiểu Mẫu.
Sân đồn vắng lặng. Bóng đèn dầu từ dãy nhà gia binh
cuối đồn hắt ra mấy vệt sáng mờ ảo. Tiếng khóc dạ đề thoát theo, nhỏ nhoi, đứt
quãng. Tôi vỗ vai người sĩ quan trẻ lúc đứng dậy bước xuống tàu.
– Thôi, vào ngủ đi! Mai dậy sớm đi chợ uống cà phê.
Tiếng xuồng máy vội vã cho kịp phiên chợ sớm đánh
thức dòng kinh đang ngái ngủ. Người lính gác ca chót ngáp dài lom khom chui
xuống khoang tàu sửa soạn giấc ngủ bù. Một đêm đi kích bình yên đã qua. Trong
ánh sáng đầu ngày còn lẩn quất hơi sương, khu rừng tràm trở nên xa xôi và hiền
hòa hơn. Tấn từ trong đồn đi ra, nước da trắng xanh như con gái. Tôi cười chào:
– Ráng tắm nước phèn nhiều vào cho đen, chớ không
ban đêm đi tới đâu là làm bia tới đó, nghe chưa cha nội!
Đoàn tàu ngóc đầu phóng nhanh về Phước Xuyên. Tôi
dẫn Tấn vào quán cà phê trước nhà lồng chợ. Thắp điếu thuốc đầu ngày, nhấm nháp
ly cà phê đen đậm, tôi nói đùa.
– Cậu thấy chưa, đâu có thua gì cà phê Lạc Sơn.
Chợ cuối năm đông đúc và màu sắc hơn ngày thường
rất nhiều. Xuồng máy đuôi tôm đậu san sát dưới bến. Con gái mặc áo ni lông màu
vàng, màu đọt chuối, đầu quấn khăn rằn hớn hở đi chợ Tết. Hai dãy phố chợ đối
diện nhau, phía trước là hàng quán phía sau là nhà ở. Khu nhà lồng giữa chợ lèo
tèo mấy quán cà phê, quán ăn, và vài tiệm vải tiệm may. Nơi nhóm chợ phiên là
khoảng sân xi măng rộng trước nhà lồng chợ nối dài xuống tận bến đò. Tấn e dè
nhìn những lồng chuột, lồng rắn và mấy con trăn dài thân to gần bằng cổ chân.
– Lính bẫy chuột về nấu nướng mời ăn nhưng em ớn
quá không dám.
– Chờ bữa nào có bạn rượu sai con gái khìa thịt
chuột với nước dừa nước cam vàng trộn chút mắt đưa mày liếc làm mồi nhậu thì
lúc đó quên cả ớn luôn.
Tấn nhìn về phía ngôi nhà thờ bên kia bờ kinh, tiếc
rẻ.
– Nhà thờ đẹp như rứa mà bỏ hoang uổng quá.
Tôi nghĩ tới nhà thờ Phú Cam và những bậc cấp dẫn
lên khoảng sân rộng trước nhà thờ. Từ trên cao nhìn xuống, mấy chiếc cầu trắng
bắc qua sông Bến Ngự chảy ôm quanh chân đồi đẹp như tranh vẽ. Tan lễ chiều con
gái xóm đạo đi dọc theo bờ sông về nhà, áo dài huệ trắng phất phơ trong gió.
Tôi nghĩ tới Tần Hương, tóc ngắn, cổ cao, nước da thắm màu nắng. Không một chút
xíu Huế mô hết mà đẹp thì thôi thê. Chiếc váy ngắn màu xanh nước biển và
chân-sáo-tần-hương làm nắng nhấp nhô.
Chúa chỉ tới vùng đất này mỗi năm một lần vào ngày
lễ Giáng Sinh. Cha ở Cao Lãnh đi tắc-ráng vào đem theo tượng Chúa. Bàn thờ máng
cỏ dựng lên sơ sài nhưng những ngọn nến hiếm hoi đã đủ làm sáng lòng con chiên
nghèo khó trong vùng đất bất an này. Con chiên đa số từ Khu Mười. Họ là giáo
dân di cư từ vùng quê nghèo đất cày lên sỏi đá Quảng Bình mà nền Đệ Nhất Cọng
Hòa đã đưa vào đây lập nghiệp. Tiếng máy đuôi tôm nổ rộn rịp giữa đêm vui như
tiếng cười hiếm hoi. Sáng sớm hôm sau Cha mang tượng Chúa xuống tắc-ráng chạy
về Cao Lãnh. Ngôi giáo đường bơ vơ hoang phế nằm chịu đựng thêm mùa nước chờ đêm
Thánh sang năm. Cao Lãnh. Chữ nghĩa người xưa giờ sao nghe quá đắng cay. Ông
quan Tổng Đốc lãnh mệnh Chúa phái vào sâu trong đất Nam Kỳ giữa vùng nước thấp
mênh mông tràm đước để mở mang bờ cõi. Mơ ước lớn lao của người xưa đã thể hiện
qua những địa danh đẹp như Mỹ An, Mỹ Phước, Phước Xuyên… Có lẽ giữa cảnh trời
nước mênh mông, nhớ người còn ở lại đất Thần Kinh, ông quan trẻ trong giây phút
lãng mạng đã lấy tên vợ Vĩnh Tế mà gọi dòng kinh mới. Và lạ chưa, có một buổi
chiều gió Tịnh Biên rợp vàng trí nhớ, rượu uống ngà ngà say, đứng bên dòng Vĩnh
Tế dõi mắt về phương xa nhớ thương ngày cuối biển. Dòng nước cưu mang nỗi lòng
Thất Sơn, Hồng Ngự chảy qua vùng đất Giang Thành qua miệt Hà Tiên rồi đổ vào
biển lớn. Đứng đó bên bờ kinh nhỏ mà nghe lòng mình xôn xao tiếng sóng.
Người lính dưới tàu lên tìm tôi nói có Thiếu úy
Chiến đang chờ. Đi ngang qua tiệm may bên hông nhà lồng chợ, cô thợ may cuống
quít nụ cười tươi, con mắt nhìn theo dài có đuôi. Chiến trong bộ bà ba đen và
cái nón bê rê Người Nhái cố hữu trao ống nói liên hợp cho tôi. Liên lạc với
phòng hành quân giang đoàn xong tôi bảo các thuyền trưởng cho tàu chạy về bến
và nhờ Chiến cho Tấn quá giang về đồn.
Đứng trên mũi tàu giữa dòng kinh, Chiến khum tay
bỡn cợt nói vọng vào bờ.
– Ông coi chừng thằng nhỏ! Để con Bé Lâm nó bẻ như
bẻ cổ mấy con trăn là coi như dẹp tiệm luôn.
Bé Lâm là cô thợ may ở nhà lồng chợ. Cách đây vài
tháng, một lần Chiến và tôi vào tiệm la cà tìm chuyện nói cho qua thì giờ. Đang
tán phét thì một vật gì đó trong bao cát cột kín để trên nền xi măng cựa quậy
làm tôi giật mình nhảy lui. Cô thợ may khoan thai mở bao cát lôi ra một con
trăn dài khoảng gần hai mét, hai tay bóp chặt ở phần đầu và cổ, bẻ thật mạnh.
Cô ta dồn con trăn vào lại bao cát nhìn tôi.
– Trung úy đừng lo, nó còn sống nhưng hết cựa quậy
gì được nữa rồi.
Tôi hoàn hồn giở giọng đểu:
– Ở đó mà đừng lo. Nhìn cô bẻ cổ con trăn tôi lại
càng lo thêm.
Cô thợ may đỏ mặt cười bẽn lẽn. Trên đường về Giang
Đoàn, Chiến nói với tôi.
– Người ở chợ nói con Bé Lâm có chồng đi làm ăn xa
nhưng gần hai năm nay tôi chưa bao giờ thấy mặt. Ở đây lý do dễ nói nhất là
chồng bỏ, chồng đi lính, đi làm ăn xa… Ông nên để ý, biết đâu thằng chồng nó
theo du kích làm giao liên ở đâu đó
Bé Lâm có khuôn mặt duyên dáng và biết nói chuyện
nên sau những lần uống cà phê tôi thường ghé lại tiệm may tán tỉnh bâng quơ.
Một lần Bé Lâm hẹn mời về nhà ăn cơm. Ngôi nhà chỉ cách chợ khoảng nửa cây số.
Tôi dè dặt nhìn cái mương nước ở hông nhà. Dân thường chống xuồng theo những
mương nước vào sâu trong đồng để thăm lúa, đặt lờ, bẫy chuột. Du kích giao liên
cũng thường dùng những tuyến nước này để chuyển quân, chuyển vũ khí, hoặc về
thăm nhà. Ngoái nhìn bóng mấy chiếc giang đĩnh ẩn hiện sau lùm cây điên điển
phía cuối xóm, tôi yên tâm đi về phía sau nhà nhìn quanh. Xóm nhà vắng lặng.
Cánh đồng bao la không một bóng người. Tiếng kinh sấm giảng từ ngôi chùa Phật
giáo Hòa Hảo nghe rõ mồm một trong buổi trưa nắng.
Gian nhà sau khuất kín, nền đất mát lạnh lổ đổ vài
vệt nắng nhỏ xuyên qua từ cánh cửa sổ bằng phên đã sập xuống. Cặp gối sắp ngay
ngắn trên tấm phản dày nâu bóng màu gỗ quý. Tấm phản vừa dùng làm giường vừa là
nóc của cái hầm tránh đạn, bao cát dựng quanh chắc chắn. Bếp vừa nhen, ngọn lửa
nhảy múa náo nức. Người đàn bà nằm dễ dãi trên tấm phản, mắt nhắm đợi chờ sau
chiếc khăn rằn sổ tung lệch lạc. Vùng bóng tối giữa thân thể man khai lồng
lộng. Thân xác hừng hực cơn sốt vụng trộm. Nồi cơm nồng mùi khê cháy khi tôi bỏ
đi ra trước hiên nhà. Lấy cái gáo dừa múc nước mưa trong lu, tôi uống từng hơi
dài như người đang chết khát. Chậu cúc vàng trước sân nhà không kịp chờ tết nở
rộ. Tôi rưới miếng nước mưa còn sót trong cái gáo dừa lên mấy nụ bông.
Con đường làng nằm im mệt nhoài dưới nắng trưa. Tôi
nghĩ tới những người đàn ông đã bỏ đi xa. Cũng như tôi, bỏ đi xa. Hoặc đã không
về kịp cho những cơn cần thiết. Tôi nghĩ tới những người đàn bà ở Đồng Tháp
Mười, cô gái chợ Phước Xuyên, Khu Năm, Khu Bảy. Những người đàn bà không có đàn
ông ở nhà, sống dọc theo dòng kinh Đồng Tiến, Mỹ An. Cuộc sống can qua nhưng
ước mơ và thân xác vẫn có đó rất thực. Khẩn thiết và không che đậy. Những cô
gái mơ lấy chồng Sài Gòn để được đi xa khỏi vùng đất tai ương với từng mùa nước
buồn tù túng, từng đêm lẻ loi trên chiếc chòi cao bên hàng đáy. Giấc mơ đơn
giản. Mơ được uống nước máy, coi cải lương truyền hình, chân đi dép. Những
người đàn bà trong vùng đất giao tranh đã sống và chịu đựng với trái tim thật
bền bỉ và đơn giản. Những điều tôi chứng kiến và hiểu ra đã trở thành nỗi buồn
theo đuổi hoài trong trí.
Một buổi trưa ở mặt trận Mỹ An, vùng kinh Bà Bèo.
Lính của một tiểu đoàn bộ binh thay phiên nhau về nghỉ ở tuyến sau. Vợ lính đi
xuồng từng đoàn vào thăm chồng và để lấy tiền lương tháng đem về. Tôi chú ý tới
một cặp vợ chồng còn rất trẻ. Người vợ tình tứ đút cơm cho chồng ăn. Sau đó hai
người ôm ấp nhau, làm tình dưới tấm poncho trùm kín. Người chồng cầm súng ôm vợ
từ giã, về lại mặt trận phía trước. Khoảng nửa giờ sau người chồng tử trận, xác
kéo ra lúc người vợ đang dọn dẹp hành trang chưa kịp về. Người đàn bà trẻ ôm
xác chồng còn hâm hấp cơn sốt hân hoan, khuôn mặt điên cứng mắt ráo hoảnh vô
hồn. Tôi chưa hề thấy một cảnh sống nào tang thương đến thế.
Lần đi kích đêm ở Khu Bảy. Lính gác báo cáo thấy có
bóng người di chuyển. Súng trên tàu bắn như mưa vào mục tiêu nghi ngờ. Lúc đổ
bộ lên, xác người du kích nằm vắt bên bờ mương ngang hông một nhà dân, cây súng
AK còn trong tay. Lục soát ngôi nhà, không ai nhận là có bà con quen thuộc gì
với người lính Cọng Sản nằm chết ngoài sân. Nhìn khuôn mặt người đàn bà trẻ
đứng khuất trong góc nhà tôi nghĩ đến người vợ lính bên bờ kinh trưa ở Mỹ An.
Tôi ra hiệu cho toán lính của mình xuống tàu rồi quay lại nói nhỏ với người đàn
bà.
– Chị lấy mền ra phủ xác lại để ngày mai Xã tới đem
đi chôn.
Xin lỗi người đàn bà ở Đồng Tháp Mười. Điều tôi chỉ
có thể làm được là để cho chị vài phút riêng tư với xác người mà chỉ phút chốc
trước đây đã hòa chung với chị cơn rung cảm hiếm hoi. Trên đường xuống tàu tôi
nghe văng vẳng tiếng nấc nghẹn ngào của người đàn bà.
Đoàn tàu để máy nhỏ chạy về lại căn cứ. Đêm thật
sâu. Trăng thượng tuần xa xôi soi chút ánh vàng mơ hồ lên dòng nước đen hun hút
trước mặt. Ngọn đèn dầu treo trên nóc hàng đáy mờ mờ soi bóng con Bé Út đang
ngồi chờ kéo đáy trông thật cô đơn. Một bầy anh chị bảy tám người, đứa chết
trong bưng, đứa đi lính sư đoàn đổi ra Trung đã mấy năm chưa về, đứa lấy chồng
xa, để lại cô em út ở nhà hẩm hiu với người cha lúc tỉnh khi say.
Ông già ngồi móm mém hớp từng hơi rượu đế, nhìn
dòng kinh nước đục nói chuyện hồi nẳm, thời Bình Xuyên Hòa Hảo.
– Út, chiên cá linh cho anh Hai mầy uống rượu đi
con.
Người đàn bà trẻ im lìm như bóng. Chiếc khăn rằn
quấn che gần kín khuôn mặt làm đôi mắt nhìn thật sâu và xa xôi. Bé Út xõa tóc
múc nước lóng phèn trong lu ra rửa mặt, không quen với những lời khen tặng của
đàn ông, nàng mỉm cười ngượng ngùng. Bé Út ngồi nói chuyện mùa nước đi buôn ở
Cao Lãnh. Cô quấn lại chiếc khăn rằn, đôi mắt nhìn trở về với chiều sâu của nó.
Tôi tiếc không nhìn được cặp môi dày mọng cười mỉm chi lúc tôi hỏi xin học cách
kéo đáy, một đêm nào đó.
– Ông già biết, ổng rầy chết.
Tôi lên nhà trên ngồi lơ đãng nghe chuyện Bình
Xuyên Hòa Hảo, mắt nhìn cái chòi chênh vênh bên hàng đáy. Nóc chòi cao vượt
khỏi lùm cây điên điển rực bông vàng phía trên dòng nước. Cái chòi chênh vênh
trên triền đêm xõa tóc. Đôi môi dày háo hức. Tiếng cá linh quẩy động lòng đáy
làm người đàn bà tiếc rẻ cơn ham muốn. Ngọn đèn dầu trên nóc hàng đáy dạn dĩ
soi bóng xuân thì lên cặp vú nhọn lểnh đong đưa.
Chiếc giang đĩnh chở lính đi chợ bớt máy lại để cập
bến. Trước mũi tàu lố nhố bốn năm ông sĩ quan Giang Đoàn. Tôi chào ông Phó
Thành.
– Bộ ông Phó tính họp bộ chỉ huy Giang Đoàn ở quán
cà phê hay sao đây.
– Đâu có, Tết nhứt tới nơi, tao dẫn thằng Thiện
thằng Mẫn đi làm rể cho phải phép.
Mẫn cao lều khều trong bộ đồ Thủy Quân Lục Chiến bỏ
ngoài quần. Khẩu rouleau nòng dài lủng lẳng bên hông.
– Ông Phó dẫn thằng Thiện đi mua than. Tao thì
chàng ràng vậy thôi chứ xơ múi gì đâu.
Bầy con gái ở chợ hiếm hoi đếm được trên đầu ngón
tay. Mẹ mất, hai chị em Hạnh sống hẩm hiu với nhau. Đứa em trai tật nguyền đang
học Trung học ở ngoài Khu Hai, chỉ về nhà những ngày cuối tuần. Thiện và con
Hạnh những ngày này rất khắng khít với nhau. Mẫn ngoài những ngày đi tuần
thường hay la cà ở tiệm Thành Phát, nhà hai chị em con Dung. Anh chàng tham lam
tính chuyện hoa thơm đánh cả cụm nên mãi vẫn lơ lửng chưa ngắt được bông nào.
Chiến tuy hay bông đùa với con Nam, con Bé Ba nhưng vùng hoạt động chính của
hắn đổ dài từ Khu Bảy ra tới Khu Ba, Chi Khu Đồng Tiến. Chiến vẫn thường ba
hoa.
– Cứ theo chiến thuật trực thăng vận là ăn chắc.
Bốc xong là nhảy. Dại gì phải ra ngoài chợ tranh giành cho tốn sức lao động.
Tôi chậm chân lại ghé vào tiệm may của Bé Lâm.
– Tối này Trung úy có ra coi hát không. Đoàn hát ở
Cai Lậy về hát Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài. Ban văn nghệ Xã diễn ca nhạc trước
rồi mới tới diễn tuồng.
– Hèn nào con nhỏ Huệ vừa bưng cà phê trong
căng-tin Giang Đoàn vừa ca sáu câu vọng cổ. Ờ nếu không đi công tác thì ghé
coi.
Bé Lâm lửng lơ nhìn cái ghế bố nhà binh ở góc tiệm.
– Coi hát xong tui ở lại để cúng tiệm, gần Giao
Thừa mới về nhà. Trung Úy nếu không thích coi hát thì ra đây nghỉ.
Tôi nháy mắt cười bước vội ra khỏi tiệm cho kịp với
nhóm sĩ quan bạn đang đi về phía quán cà phê ở cuối nhà lồng chợ.
Trụ sở Xã nhộn nhịp người đang dựng rạp cho đêm văn
nghệ đón Giao Thừa. Ông Trưởng Cuộc Cảnh Sát kiêm Trưởng Ban Văn Nghệ Xã đang
hò hét chỉ trỏ mấy cậu Nhân Dân Tự Vệ treo cái màn nhung đỏ cũ mèm lên phía
trước sân khấu dựng bằng thùng phi lót ván ép. Phía trong trụ sở, Tài thuyền
trưởng đang đệm đờn cho con Huệ dợt lại mấy câu vọng cổ. Tiếng đàn trống, tiếng
ca, pha lẫn với tiếng người cười nói xôn xao… Bờ sông xa mờ nhạt khói hoàng
hôn. Con nước lớn lục bình trôi rời rạc. Chiều đã xuống mặt trường giang bát
ngát. Mà bóng người xưa còn lẩn quất giữa sông dài…
Ông Trưởng Ban Văn Nghệ ra chào chúng tôi. Nụ cười
dễ dãi, cái đầu hói bóng lưỡng.
– Mấy ông nghe con nhỏ Huệ ca ngon lành không! Tối
nay nó là Tân Bạch Huệ hát sáu câu Tuyệt Tình Ca.
Ông Phó nhìn Mẫn châm chọc:
– Còn cô Dung thì ca bản gì vậy.
Ông bầu văn nghệ trịnh trọng lấy trong túi áo ra tờ
chương trình viết tay.
– Con Dung…à Tân Mỹ Dung sẽ ca bản Chuyện tình Lan
và Điệp.
Tôi đứng lên xạo với Mẫn.
– Thôi tao đi về Giang Đoàn ngủ lấy sức tối coi văn
nghệ. Mầy vô trỏng dợt với ca sĩ Tân Mỹ Dung đi chớ. Đừng để bể dĩa mất mặt lắm
đó nghe!
Ông Phó tay cầm cây cơ bi da.
– Lấy tàu mà về, tới trưa nói tụi nó ra đón tôi về.
Tôi từ chối. Từ chợ về Giang Đoàn chỉ hơn một cây
số. Tôi vẫn thường một mình đi dọc theo bờ kinh. Chân bước, lòng bâng quơ nhớ
về những điều rất cũ. Một khuôn mặt, một góc phố đâu đó trong đời. Và như thế,
hình như buồn phiền đã bay đi ít nhiều theo con gió châu thổ mênh mang trời
nước.
Hạnh ngồi phía sau quầy hàng bánh kẹo chào vọng ra.
Tôi bước len lỏi qua khu chợ phiên đi về phía bến sông. Con gái đi chợ Tết xong
bơi xuồng về nhà. Trên xuồng ngổn ngang hàng vải và những nhánh mai nhánh cúc
bằng nhựa vàng sặc sỡ. Từ trên cầu nhìn xuống lòng ngã tư kinh, hàng mấy chục
chiếc xuồng bơi tỏa ra bốn hướng trông như những chiếc lá tre trong vũng nước
mưa đọng thời tuổi nhỏ.
Nắng cuối năm ở đồng bằng nhàn nhạt ngây ngây,
phảng phất cơn gió nhẹ có vừa đủ thênh thang để cánh đồng đước bao la cũng xao
xác nghiêng mình. Gần hai năm ở vùng nước thấp làm tên lính thú thực sự. Và còn
bao lâu nữa. Cho tôi. Cho bạn bè. Cho những người trong cuộc chiến tranh này.
Ngôi giáo đường trước mặt vẫn im lìm kiên nhẫn soi
bóng xuống dòng kinh chờ mùa nước rút, điêu tàn tượng Chúa Hài Đồng bơ vơ đêm
thánh. Bóng chiếc thập tự trên nóc tháp chuông lung linh đáy nước, gãy đổ lời
nguyện không thành. Lời kinh man mác điệu hò châu thổ từ ngôi chùa bên bờ kinh
Mỹ An vẫn quyện trong gió sớm, trong hương nồng buổi trưa những điều nhân ái.
Những người đàn bà ở Đồng Tháp Mười vẫn sống với trái tim đơn giản thiết tha.
Cuộc chiến tranh vẫn còn tiếp diễn. Và tôi chợt
thèm một giấc ngủ.
Phan Thái
Yên.
304Đen – Llttm - DSC
No comments:
Post a Comment