Dép râu, ngày về
Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, hắn “được
Cách Mạng khoan hồng nhân đạo tập trung để bảo vệ tính mạng cho, vì nếu để ở
ngoài sẽ bị nhân dân trả thù”. Huyện Củng Sơn thuộc tỉnh Tuy Hòa là vùng hoạt
động của “Cách Mạng” trước 75. Lúc mới “nhập môn” giữa vùng rừng núi này, mỗi
lần đi ra ngoài “học tập lao động để sau này trở về không còn bóc lột như thời
Mỹ Ngụy nữa, mà biết tự mình làm ra của cải vật chất hầu nuôi sống bản thân,
gia đình và đóng góp cho xã hội”, hắn nơm nớp sợ đồng bào địa phương có tiếng
là dân Cách Mạng, sẽ trả thù (thù gì thì hắn không biết), nếu họ bắt gặp và
nhận ra hắn là “ngụy quân”.
Một hôm, trên đường đi “lao động là vinh
quang” ngang qua khu chợ, có mấy người dân chạy theo đoàn tù binh. Hắn lo lo;
đang lúc chuẩn bị tinh thần chịu trận “nhân dân trả thù” thì có người dí vào
túi áo hắn gói thuốc lá Sông Cầu. Đó là một nhân dân hoàn toàn xa lạ. Hắn sững
sờ, chưa kịp nói lời cảm ơn thì người đàn bà ân nhân đã lách vội vào đám đông
như tìm đường chạy trốn. Từ đó về sau, nhiều người trong đám tù và hắn lâu lâu
lại được “nhân dân trả thù” như thế; khi cục đường mía, lúc miếng kẹo lạc.
Lại một hôm, đám tù được thả lỏng phân tán
mạnh ai nấy tự đi tìm... cỏ tranh để cắt (về lợp nhà). Hắn được một phụ nữ quần
áo vá đùm vá đụp mặt hốc hác, chạy đến trước mặt, mắt dáo dác ngó trước ngó sau
một vòng rồi dí vào tay cho cái bánh ú làm bằng bột củ sắn mì với nhân hột mít.
Chị ta nói “Anh ăn cho đỡ đói. Bây giờ chúng tôi mới hiểu ra..., và thương các
anh quá”.
Không thấy “Nhân dân trả thù” mà chỉ gặp
nhân dân “Thương các anh quá”, nhưng Cách Mạng vẫn nhất quyết tiếp tục “Bảo vệ
tính mạng cho Ngụy quân ngụy quyền, những kẻ có tội với nhân dân mà lấy hết
trúc Trường Sơn làm bút, lấy sạch nước Biển Đồng làm mực cũng tả không xiết”.
Tháng lại tháng. Năm qua năm. Đêm đêm nằm nêm cối đến ngộp thở trong những dãy
nhà được bao bọc bởi nhiều lớp kẽm gai xen kẽ lớp xương rồng rồi lớp mìn bẫy,
lớp hầm chông. Ngày ngày đi ra ngoài làm đủ thứ công việc của người tù khổ sai.
Khi đi lẫn lúc về, đoàn tù binh phải dừng lại nơi cổng ra vào để lính gác đếm.
Đi, đếm rất mau; về, vừa đếm vừa khám xét khắp người tù xem có lận theo trong
túi áo thắt lưng con cóc con nhái, con rắn con rít, hay cọng rau nạm cỏ (Như cỏ
sam heo ăn được là tù ăn được)... gọi chung là những thứ “Cải thiện linh tinh”
bị cấm ngặt, nên trong khi chờ đợi, cứ phải ứa gan với cái bảng đỏ to tổ chảng
trước mặt treo vắt ngang giữa hai cái lô cốt chằm chằm hai bên cửa ra vào, có
hàng chữ màu vàng khè “Không có gì quý hơn Độc Lập Tự Do” phía trên hàng chữ
“Trại Cải Tạo A30”. Mỗi lần như thế, hắn lại hình dung ra cảnh tú bà cho treo
trước cửa nhà chứa của mụ, cái băng trắng chữ đỏ “Chữ Trinh đáng giá ngàn
vàng”.
“Ngày như lá tháng như mây”, chỉ là với
thế giới bên ngoài. Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại. Hắn thường bày tỏ
rằng, nhờ Ơn Trên phù hộ hắn mới qua khỏi hơn 2500 cái “thiên thu tại ngoại”,
để có ngày được “Cách mạng khoan hồng” cấp cho tờ “Giấy Ra trại”. Trên đường về
với gia đình tận vùng Cao Nguyên, hắn phải ghé lại Nha Trang để chờ mua vé xe
cho chặng đường cuối. Hắn đi lang thang để nhìn lại cảnh cũ người xưa nơi thành
phố mà hắn đã qua nhiều thời kỳ gắn bó. Thuở nhỏ “du học”; lớn đi thi Tú Tài;
mấy tháng học Không Trợ tại Trường Không Quân, và những lần “quá cảnh” trên
đường đi đi về vê. Người thiếu nữ đầu tiên đi qua đời hắn cũng từ bãi thùy
dương cát trắng này. Nha Trang đã là một phần đời hắn.
Hắn đi ngang quầy bán thuốc lá lẻ bên lề
đường Nguyễn Hoàng. Bỗng dưng hắn nhớ và thèm một điếu thuốc CAPSTAN ngày nào.
Sau khi tính nhẩm và chắc chắn số tiền Trại cải tạo cấp cho theo tiêu chuẩn nhà
nước làm “của ăn đi đường” còn đủ để mua được hai điếu thuốc lá Song Long (hắn
biết giá thuốc vì Trại thỉnh thoảng có mua giùm cho những ai có tiền cần mua), hắn
mạnh bạo tiến đến phía quầy bán thuốc. Đã gần bảy năm, nay hắn mới được thấy
lại nụ cười chào khách của những người bán thuốc lá bên đường mà trước kia hắn
thường gặp. Hắn hân hoan như vừa tìm lại được một điều gì quý hóa đã mất từ lâu
lắm. Nhưng bỗng dưng hắn chưng hửng khi thấy mặt cô gái bỗng nhiên tối sầm lại
và tỏ vẻ dửng dưng với khách. Hắn ngạc nhiên trước thái độ thay đổi đột ngột
của cô gái. Hắn kiểm điểm lại mình, và đinh ninh mình không hề có cử chỉ khiếm
nhã nào hay nói năng gì khác ngoài lời hỏi mua thuốc lá. Hắn sực nhớ lúc nãy cô
gái có liếc mắt xuống đôi chân hắn. Hắn chợt thoáng “lý đoán” ra nguyên nhân.
Nhìn thẳng vào mặt cô bán thuốc, với vẻ nghiêm trang, hắn nói :
“Anh vừa từ trại Cải tạo ra, đang
trên đường về, nên đành phải mang đôi dép này.”
Khi hắn vừa mới nói đến “Anh vừa từ trại
cải tạo ra”, cặp mắt cô gái sáng lên và đôi má cô ửng hồng, nhếch lên để lộ ra
cái núm đồng tiền. Hình như cô muốn nói điều gì mà không cất lên được. Cô luống
cuống lấy trong hộc ra gói thuốc Hoa Mai còn nguyên rồi bằng hai tay đưa lên
sát ngực hắn, với ánh mắt thương cảm trìu mến :
“Anh cầm lấy, em biếu anh. Rất tiếc
không còn thuốc trước 75.”
Hắn đã bỏ hút thuốc từ lâu, nhưng vẫn nhớ
mãi gói thuốc của ba mươi năm về trước. Mỗi tháng Tư về, hắn lại càng thấy món
nợ hắn mắc mỗi to hơn. Không phải nợ cái gói thuốc lá cô gái biếu. Nhưng là nợ
chính cuộc đời cô mà hắn đã không bảo vệ được. Để ít ra cô khỏi phải nhìn thấy
những đôi dép Tháng Tư.
Nguyễn Bá Chổi
304Đen – llttm - VHVN
No comments:
Post a Comment