KHẢO LUẬN VỀ THƠ MỚI
Hoàn cảnh xuất hiện thơ
mới - Khái niệm về thơ cũ, thơ mới
Thơ cũ là thơ viết theo lối cũ hoặc Đường
luật hay cỗ phong có luật lệ nhất định. Thơ mới là thơ không theo luật lệ của
thơ cũ, tức phá bỏ những niêm, luật, đối nhưng vẫn giữ vần điệu
Thơ mới ra đời,
tạo nên bước ngoặt trong lịch sử thi ca Việt Nam. Trải qua bao thăng trầm, sóng
gió, thơ mới cùng với thời gian, có một
chỗ đứng vững chắc khi được trả về đúng giá trị đích thực của nó. Dòng Thơ mới xuất
hiện trên văn đàn nước ta như một luồng gió mới thổi vào nguồn sống, tạo nên
nét mới, từ nội dung cho đến hình thức thể hiện. Ngoài ra Thơ Mới còn phát xuất
từ hoàn cảnh cụ thể của nước ta thời bấy giờ.
Thơ mới là cả “một cuộc cách mạng trong thi ca”, khơi nguồn và mở
ra một miền sáng tạo mới dào dạt, tươi tắn của thơ ca nước nhà. Ngoài ra phải
kể đến những năm đầu thế kỷ XX, cùng với chính sách khai thác thuộc địa của
thực dân Pháp, nền văn hóa, văn học phương Tây tràn vào nước ta như ngọn gió lạ
mang sinh khí mới thổi vào văn đàn nước ta. Quá trình mở mang văn hóa, đô thị
hóa, sự xuất hiện đội ngũ trí thức Tây học cùng sự phát triển rộng rãi của kỹ
thuật in ấn, xuất bản đã dẫn đến nhu cầu phải đổi mới thơ ca. Nền văn học cổ
điển dẫu mang lại nhiều tác phẩm giá trị như: Hồng Đức Quốc Âm Thi tập của vua
Lê Thánh Tông, thơ chữ Nôm của bà Hồ Xuân Hương, thơ chữ Hán và truyện Kiều của
Nguyễn Du v.v. nhưng sự gò bó khuôn
thước, tính quy phạm, ước lệ, đã trở nên không còn phù hợp với nhu cầu đời sống
của một xã hội với tư duy của con người mới. Bắt đầu phong trào thơ mới phải kể
trứơc tiên là bài thơ "Con Ve và Con Kiến" của Nguyễn Văn Vĩnh, dịch bài thơ của LaFontaine, đăng ở Đông
Dương tạp chí năm 1914 số 40, theo thể
tự do khác hẳn thơ cũ:
Con ve sầu kêu ve ve
Suốt mùa hè
Ðến kì gió bấc thổi
Nguồn cơn thật bối rối...
Ðây là bài thơ dịch theo thể thơ tự
do và được người đọc rất hâm mộ, chính là cơ sở cho một thể thơ mới ra đời.
Kế đến là bài Tình Già (1932) của
Phan Khôi, đăng trên tờ Phụ Nữ Tân Văn nhằm cổ vũ cho loại thơ mới, từ đó thơ
mới được hình thành và phát triển mạnh mẽ:
Hai mươi bốn năm xưa,
một đêm vừa gió lại vừa mưa,
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ,
hai cái đầu xanh kề nhau than thở:
“Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng,
mà lấy nhau hẳn đà không đặng:
Để đến nỗi tình trước phụ sau,
chi bằng sớm liệu mà buông nhau!”
“Hay nói mới bạc làm sao chớ!
buông nhau làm sao cho nỡ?
Thương được chừng nào hay chừng ấy,
chẳng qua ông Trời bắt đôi ta phải vậy!
Ta là nhân ngãi, đâu phải vợ chồng,
mà tính chuyên thuỷ chung!”
Hai mươi bốn năm sau,
tình cờ đất khách gặp nhau:
Đôi cái đầu đều bạc. Nếu chẳng quen lung,
đố có nhìn ra được?
Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi,
con mắt còn có đuôi.
Phan Khôi, 1932
Thơ mói bùng phát mạnh từ sau những
cuộc khởi nghĩa thất bại của Nguyễn Thái Học cũng như phong trào Đông Du của cụ
Phan Bội Châu bị Pháp giải tán và bắt giam cho tới chết, sĩ phu Việt Nam như
cùng đường, bế tắc trong cuộc sống cũng như bế tắc về đường lối đấu tranh giải
phóng dân tộc. Họ chuyển sang đấu tranh chính trị bằng đường lối tuyên truyền
và dùng thơ văn diễn đạt tư tưởng. Nếu cứ theo lối cũ dùng thơ Đường, cổ phong,
thơ lục bát, song thất lục bát, ngũ ngôn thì không đủ sức thuyết phục, cho nên
họ đi tìm nguồn cảm hứng mới làm nền tảng và phương tiện diễn đạt tư tưởng, ý
muốn, nói lên tinh thần đấu tranh dân tộc. Đo đó thơ mới được khai sinh và phát
triển mạnh trong giai đoạn 1932- 1945.
Mãi về sau khi sự
phát triển đến cao độ ở thơ của: Xuân
Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Huy Cận,…thơ mới đã thực sự làm “một cuộc
cách mạng trong thi ca”. Dòng Thơ
mới đã khơi nguồn cho một lối tư duy thơ mới mẻ, đã mở ra nguồn cảm hứng
với bao khám phá mới. Thơ mới ví như một
khu vườn với nhiều hoa thơm bát ngát mà hoa nào cũng lạ, nhiều màu sắc rực
rỡ. Với sự đổi mới về tư duy sáng tạo,
đổi mới từ hình thức nghệ thuật cho đến nội dung, tư tưởng, mạnh dạn đưa cái
tôi cá nhân vào thi ca. Thơ mới đã góp phần giải phóng thơ ca khỏi những ràng
buộc nghiêm ngặt về niêm, vần , luật, của thơ cũ. Sự bùng nổ cái tôi cá nhân và
ngôn từ đã đưa nền thi ca nước ta vào một thời đại mới trong nền văn học nước
nhà.
B. Lý do xuất hiện thơ mới.
Vì thơ cũ nhất là thơ Đường có những quy định nghiêm nhặt về luật bằng
trắc, niêm, đối nên khó theo. Các thi gia nhận thấy những luật lệ trên quá khắc
khe làm ngăn cản nguồn cảm hứng thi tứ khiến cách diễn đạt không được tự nhiên
đôi khi gượng ép mất hay, cố ép quá thì bài thơ có xác mà không hồn. Bởi vậy
các thi gia mới phá bỏ những luật lệ ấy để được tự do diễn đạt tư tưởng, ý nghĩ
mình một cách trung thực và tự nhiên do đó mới có thơ mới và phong trào thơ mới
sau nầy. Các thi gia Việt Nam đi tìm
nguồn cảm hứng ở nền thi ca Pháp, họ nhận thấy thơ Pháp không hạn chế về số
câu, số chữ, cũng không cần niêm luật hay phép đối gì cả mà thơ vẫn hay vẫn
truyền cảm nên họ mới đem áp dụng một cách rộng rãi vào thơ ta. Trong thơ của người Pháp chỉ có mấy lối thơ
định thể như: Sonnet,Ballade, Rondeau,là đã ấn định sẵn số câu, và cách hiệp
vận còn lại đều theo cách thức thông thường nhưng áp dụng rộng rãi mà thể hiện ban đầu ở Việt Nam là bài thơ của
Nguyễn Văn Vĩnh và bài của Phan Khôi kể trên. Trước khi tìm hiểu cặn kẽ thơ
mới, chung ta cần lướt qua các nhận định về thơ mới của các nhà thơ, nhà văn,
nhà nghiên cứu văn học.
C. Các nhận định về thơ mới.
1. Chính Phan Khôi người đề xướng
ra nó cũng chưa biết gọi tên là gì, chỉ giới thiệu sơ lược trên Phụ Nữ Tân Văn
số 122, 1932 như sau: "Tôi sắp loan bày ra một lối thơ mới vì nó chưa
thành thục nên chưa có thể đặt tên là gì được, song có thể cứ cái đại ý của lối
thơ mới nầy ra, là : đem ý có thật trong tâm khảm mình tả ra bằng những câu có
vần mà không phải bó buộc bởi niêm luật gì hết".
2. Hoài Thanh Hoài Chân, tổng kết
phong trào thơ lại cho rằng: "Không thể hiểu theo cách định nghĩa của ông
Phan Khôi, Thơ tự do chỉ là một phần nhỏ trong thơ mới. Phong trào thơ mới trước hết là một cuộc thí
nghiệm táo bạo để định giá trị những khuôn phép xưa".
3. Huy Cận cho rằng: "Thơ mới
đã tạo ra cảm xúc thi ca chung cho cả thời đại, và những bài thơ đương thời có
giá trị đều được sáng tác với luồng cảm xúc mới ấy cho dù các đề tài mà các tác
giả lựa chọn có thể rất khác nhau. Thơ mới tiếp tục sống tiếp tục phát triển nở
nhiều hoa kết nhiều trái qua các giai đoạn phát triển của thơ ca dân tộc".
4. Với Phan Cư Đệ: "Thơ mới ở
đây là phong trào thơ ca lãng mạn 1932-1945 mang ý thức hệ tư sản và quan điểm
Nghệ thuật vị nghệ thuật".
5. Với Nhóm Lê Quý Đôn: "
Phong trào thơ mới cũng như khuynh hướng lãng mạn nói chung là biểu hiện của cá
nhân tư sản".
D. Vậy thơ mới là gì?
Giáo sư Dương Quảng Hàm đưa ra một
định nghĩa ngắn gọn sau đây: "Thơ mới là một thể thơ không theo quy củ của
lối Đường luật, nghĩa là không hạn chế số câu số chữ, không theo niêm luật, chỉ
cần có vần có điệu".
Những thi sĩ gần đây như Nguyễn Khắc Hiếu, Trần
Tuấn Khải, Đông Hồ (Lâm Tấn Phác) v.v. . . Viết theo lối thơ cũ hoặc Đường
luật hay cổ phong nhưng sau đó phá bỏ
luật lệ của lối thơ cũ, được mệnh danh là “Thơ mới”.
Như vậy thơ mới là cách gọi trào lưu sáng
tác thơ phi cổ điển, chịu ảnh hưởng các phép tắc tu từ, thanh vận, nhịp điệu
của thơ hiện đại phương Tây, trở thành một hiện tượng mới, phát triển dựa trên
yêu cầu cấp thiết của thi ca truyền thống
E. Những nét khác biệt trong thơ mới:
Thơ mới ra đời vào khoảng năm 1932
và phát triển như vũ bão trong khoảng 2 thập niên (1932-1945) để lại dấu ấn
quan trọng trong lịch sử văn học, thơ ca Việt Nam, đồng thời tạo được thế đứng
vững chắc với những cái tên lẫy lừng như TTKH, Thâm Tâm, Xuân Diệu, Huy Cận,
Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Thế Lữ, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính vv…. Theo tài liệu
của học giả Dương Quảng Hàm, thì người ta có thể liệt kê ra những điểm khác
biệt như sau:
I. Về mặt
Hình Thức.
Thơ mới không tuân theo vần, luật, niêm của
các thể loại thơ cổ ( thơ đường luật, cổ phong…). Vần luật, niêm , phép đối, của cổ thi đã quá gò bó trong
việc thể hiện tiếng thơ của con người.
_ Khuynh hướng chung của thời kỳ THƠ MỚI ( năm
1932-1945) là khuynh hướng lãng mạn, là lý tưởng biểu đạt cái tự do hóa ,thi vị hóa cuộc sống nhiều rối
ren, tơi bời của xã hội cũng như tâm trạng buồn sầu, u uất, lạc lõng giữa
dòng đời. Nhiều rạo rực, âu lo, băng khoăn, nhiều khát vọng một cách vội vã,
căng thẳng, những ước mơ chưa thành.
-Thơ mới là thơ của cái "tôi" chưa bao giờ được
biết đến trong thơ cổ điển. Cái "tôi" bấy giờ không làm công việc
"tải đạo" nữa mà vượt lên những công thức ước lệ, khuôn khổ luật định,
để đứng hiên ngang, thể hiện bản ngả
độc đáo của mình. Chính cái mới này
đã quyết định sự ra đời của thơ mới.
Thể cách lối thơ mới qua các tác phẩm đã xuất bản, thì như sau:
Số câu trong bài và trong khổ.
1. Số câu trong bài, không nhất định,
có khi đặt các câu liên tiếp nhau từ đầu tới cuối, có khi chia các câu trong
bài thành nhiều khổ. Số câu trong khổ cũng không nhất định: hoặc 4 câu, hoặc 6
câu, hoặc 8 câu, cũng có khi các khổ trong một
bài cũng dài ngắn khác nhau:
Khổ:
*hoặc
4 câu:
Ví dụ 1:
Lần cuối ta về
mưa nửa đêm
Căn nhà xưa ấy
đã buông rèm
Dăm ba con dế
nơi thềm cũ
Vẫn nhớ ca bài
ca rất quen.
(Thế Lữ)
Ví dụ
2:
Được
tin em sắp lấy chồng
Anh
cười đã lắm, anh buồn cũng ghê.
Em
ơi, em nuốt lời thề
Anh
lầm anh tưởng gái quê thật thà.
(Em Sắp Lấy Chống
/Hàn Mặc Tử)
*hoặc 6 câu :
Đã
trong tư thế nghê kình
Dám
cầm gương, tự sửa mình trước gương
Lại
vì hai tiếng "yêu thương"
Gian
nan trăm trận phá đường mà lên
Tự
mình đóng lại yên cương
Ngọn
roi tráng sỹ dặm trường đã quen.
( Bài ca Tự
tình/ Lưu Trọng Lư)
*hoặc 8 câu:
Ví dụ 1:
Mùa thu lá bay, anh ở đâu?
Để nỗi nhớ thương hóa âu sầu
Từng chiều, từng chiều trong đơn chiếc
Mình em đếm lá, rớt giọt châu.
Vời vợi mây chiều trôi nơi đâu?
Để khoảng trời xanh thăm thẳm màu
Nỗi niềm bâng khuâng sao trống trải
Lá cứ rơi hoài, Thu xót không?
( Xót Thu/ Ngân Giang)
Ví dụ
2:
Giấy mực đau lòng chữ nghĩa
Tài hoa phô giữa chợ đời
Những nghĩ e hồng thẹn tía
Chi cho bướm cợt ong cười
Mấy độ phai sương nhạt nắng
Mắt xanh còn luyến gót đường
Giữ chút niềm Trinh ý Trắng
Gửi lòng tri kỷ muôn phương
( Giữa chợ đời/ Đông hồ Lâm Tấn Phác)
2. Số câu trong khổ
Có
khi chia các câu trong bài thành nhiều khổ. Số câu trong khổ thường là 4 câu như trong "Bài thơ thứ nhất" (TTKH):
khổ 1:
Thuở trước hồn
tôi phơi phới quá,
Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương...
Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại,
Êm ái trao tôi một vết thương.
Khổ 2:
Tai ác ngờ đâu gió lại qua,
Làm kinh giấc mộng những ngày hoa,
Thổi tan tâm điệu du dương trước
Và tiễn người đi bến cát xa.
Khổ 3:
Ở lại vườn Thanh có một mình,
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh;
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo,
Yêu bóng chim xa nắng lướt mành. ...
( Bài thơ thứ
nhất/ TTKH)
3. Số chữ trong câu :
a. Số chữ
trong câu không nhất định, ngắn 2 chữ,
dài đến 12 chữ:
Phần nhiều bài
viết theo những câu có số chữ nhất định. Những câu thường sử dụng là:
b. Câu 5 chữ. Thí dụ bài "Ông Đồ" ( Vũ Đình Liên):
Mỗi năm
hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Ông đồ vẫn ngồi
đấy
Qua đường không
ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi baỵ
Năm nay đào lạinở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
c. Câu 7 chữ. Thí dụ bài "Mưa Xuân I" ( Nguyễn
Bính):
Khổ
1&2:
Em là con gái trong khung cửi
Dệt lụa quanh năm với mẹ già
Lòng trẻ còn như cây lụa trắng
Mẹ già chưa bán chợ làng xa
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy
Hội chèo làng Ðặng đi ngang ngõ
Mẹ bảo: “Thôn Ðoài hát tối nay”...
(Mưa Xuân I /Nguyễn Bính)
d.Câu 8 chữ. Thí dụ bài "Đánh lừa" (Hàn Mặc Tử) :
Khổ
1&2:
Nói trăng rằm là nói cuộc đoàn viên
Nói trăng khuyết là nói hồi ly biệt
Không thấy mộng là tình chưa thống
thiết
Vắng hương hồn e gió bớt say sưa
Giọng hôm nay còn luyến giọng hôm xưa
Son phấn cũ thơm bằng son phấn mới
Càng tuyệt vọng lại càng như mong mỏi
Càng xa nhau càng thấy được gần
nhau...
(Đánh lừa / Hàn Mặc Tử)
e. Câu 10 chữ. Thí dụ bài Trên đường về:
(Bốn câu đầu)
Chiều thu. Sau rặng
tre xa, mặt trời khuất bóng
Ánh vàng còn rải
rác trên cánh đồng xanh rộng
Đám mây chiều trắng
xám đã nổi ở chân trời
Từ xa lại, gió
thu làm man mác lòng người.
(Nguyễn Văn Kiện)
f. Nhưng thỉnh thoảng có bài gồm những câu dài ngắn khác nhau sắp đặt
không theo thứ tự nhất định. Thí dụ bài "Tiếng trúc tuyệt vời" của Thế
Lữ:
( khổ 2)
Ánh chiều thu
Lướt mặt hồ thu,
Sương hồng lam nhẹ lan trên sóng biếc,
Rặng lau già xao xác tiếng reo khô.
Như khua động nỗi nhớ nhung, thương tiếc
Trong lòng người đứng bên hồ.
g. Có bài các khổ đều đặt những câu
dài ngắn khác nhau nhưng theo thứ tự nhất định. Ví dụ: Trong bài Cùng Mặt Trời,
trích lục một khổ dưới đây, khổ nào cũng đặt thành những câu: 8+8+8+8+8+4+4+10
chữ.
Cùng mặt tròi (khổ thứ 3)
8.Khi
trời biết bị mây tối phủ che,
8.Ta
ôm đàn, lẳng lặng lắng tai nghe
8.Trên
trời đen nghịch vang lừng sấm động
8.Chớp
nhoáng xé mây rừng ầm ỹ rống
8.Gió
điên cuồng gọi sóng sấn lên bờ
4.Dưới
ánh sáng mờ
4.Mặc
cho sét nổ
10.Người
trên cao, ôi mặt trời! nhạo cơn giông tố.
Huy Thông (trong
Phong Hóa số 65 trang 3)
h. Có khi cả
bài dùng một số câu có số chữ nhất định, nhưng xen vào một ít câu ngắn hơn hoặc
dài hơn. Thí dụ: bài Nhớ rừng
(khổ thứ ba)
8 __ Nào đâu những
đêm vàng bên bờ suối
8 — Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan;
9 — Đâu những ngày mưa chuyển động bốn phương ngàn.
9 — Ta lặng ngắm cảnh giang sơn ta đổi mới?
9 — Đâu những buổi bình minh cây xanh nắng gội,
8 — Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
9 — Đâu những buổi chiều lênh láng máu sau rừng,
8 — Ta đợi tắt mảnh mặt trời gay gắt?
8 — Để chiếm lấy phần tối tăm bí mật?
8 — Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?
(Thế Lữ)
II.Về
nội dung:
Cách hiệp vần
Có hai sự thay đổi
trong cách gieo vần:
1) Trong một bài thơ, thường mỗi câu mỗi gieo vần. Tuy vậy, cũng có bài có câu
không có vần.
2) Các câu trong bài hiệp
vận theo nhiều vần, vừa vần bằng, vừa vần trắc, chứ không hiệp theo một vần
như thể thơ Đường luật.
a.Vần liên tiếp:
hai vần bằng rồi đến hai vần trắc; hoặc ngược lại. Thí dụ
bài "Chưa Bao Giờ Thương
Thế" (Bàng Bá Lân).
Đời ta bao lần
dại,
Chỉ vì nhiều tự áị
Đòi hỏi nơi người tình
Một lòng yêu băng trinh.
b. Vần gián cách: một vần bằng rồi đến một
vần trắc hoặc ngược lại. Thí dụ
"Khúc ca hoài
xuân" (Thế Lữ)
Tiếng ve ran trong bóng cây râm mát,(vt)
Giọng chim khuyên ca ánh sáng mặt trời.(vb)
Gió nồng reo trên hồ sen rào rạt.(vt)
Mùa xuân còn, hết? Khách đa tình ơi!(vb)
c. Vần ôm : giữa hai vần trắc xen vào hai vần bằng hoặc trái lại. Thí
dụ: bài Hồn xưa của Vũ Đình Liên
(khổ thứ I)
Lặng lẽ trên đường lá rụng mưa bay, (v.b)
Như khêu gợi
nỗi nhớ nhung thương tiếc (v.t)
Những cảnh
với những người đã chết, (v.t)
Tự bao giờ còn
phảng phất nơi đây! (v.b)
d.Vần hỗn hợp:
các vần bằng trắc
không theo thứ tự nhất định. Thí dụ: Tiếng
trúc tuyệt vời (khổ thứ I):
Tiếng địch thổi
đâu đây, (v.b)
Cớ sao nghe réo rắt? (v.t)
Lơ lửng cao đưa
tận lưng trời xanh ngắt (v.t)
Mây bay… gió quyến,
mây bay… (v.b)
Tiếng vi vút như
khuyên van, như dìu dặt (v.t)
Như hắt hiu cùng
hơi gió heo may, (v.b)
(Thế Lữ)
Hoặc:
Bài
thơ "Hoa nở" của Nguyễn Văn Kiện
(
khổ 1)
Giữa đám lá xanh đầm đìa hạt móc (vt)
Lóng la lóng lánh dưới bóng vừng ô
(vb)
Chân trời vừa mọc (vt)
Và bên đàn chim líu lo (vb)
Đóa hồng tươi rực rỡ như hòn ngọc
(vt)
Nhịp điệu (Điệu thơ)
Nhịp Điệu: nghĩa đen
là cung bậc của âm nhạc.
Nói về thơ thì
nhịp điệu là sắp đặt và phân phối các tiếng ( bao gồm việc
ngắt câu thành đoạn nhỏ tạo nên nhịp)
trong câu thơ sao cho âm thanh
và tiết tấu được êm ái dễ nghe và hợp với tình ý trong câu. Chính
cái nhịp điệu ấy, khi dịu dàng, khi mạnh mẽ, khi nhặt, khi khoan, làm cho bài
thơ có sự điều hòa như một khúc âm nhạc. Điệu
là một phần tử cốt yếu của thơ.
Thơ khác văn xuôi không phải chỉ ở vần, mà thứ nhất là ở điệu nữa. Điệu do 2
nguyên tố hợp lại thành: 1- âm thanh;
2- tiết tấu.
1.Âm thanh
Về âm thanh, lối thơ Đường luật phải theo đúng
những luật nhất định để sắp đặt tiếng bằng tiếng trắc. Tuy những luật ấy làm
cho câu thơ êm ái, nhưng vì phải bó buộc về thứ tự bằng trắc,niêm luật nên các nhà làm thơ khó lựa chọn các tiếng
cho âm hưởng câu thơ hợp với tình ý muốn diễn đạt. Nay các nhà làm thơ mới
không phải bó buộc trong các luật ấy, nên dễ lựa chọn các âm thanh, cho phù hợp
với tình ý trong câu thơ, như dùng những tiếng có âm
thanh nhẹ nhàng để diễn tả những tình cảm êm đềm, sầu thảm, tha thiết,
những tiếng có âm thanh mạnh mẽ để diễn tả những
tình cảm mãnh liệt, hùng dũng, v.v… Thí
dụ: mấy câu thơ sau này tả cái oai lực dũng mãnh của con hổ ở trong rừng có những
tiếng đọc lên có giọng mạnh mẽ:
Ta sống mãi
trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành
hống hách những ngày xưa
Nhớ cõi sơn lâm,
bóng cả cây già,
Với khi tiếng
gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Với khi thét
khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân
lên, dõng dạc đường hoàng
(Thế Lữ)
2. Tiết tấu –
Tiết tấu nghĩa là nhịp nhàng. Tiết
tấu là do cách ngắt
câu thơ thành từng đoạn dài ngắn khác nhau mà thành.
Trong lối thơ
cũ thì câu ngũ ngôn thường
ngắt làm: trên 2 chữ, dưới 3 chữ, hoặc ngắt làm: trên 1 dưới 4 hoặc trên 4 dưới
1. Thí dụ bài Khóm gừng tỏi:
Lởm chởm / gừng
vài khóm,
Lơ thơ / tỏi mấy hàng.
Vẻ chi / là cảnh mọn
Thế mà / cũng tang thương
(Ôn Như Hầu)
Còn câu thơ thất ngôn thì có hai cách ngắt: hoặc
trên 4 dưới 3; hoặc trên 2 dưới 5. Thí dụ bài Qua Đèo Ngang:
Bước
tới Đèo ngang, / bóng xế tà;
Cỏ cây chen đá /
lá chen hoa.
Lom khom dưới
núi, / tiều vài chú;
Lác đác bên
sông, / chợ mấy nhà.
Nhớ nước / đau
lòng con quốc quốc;
Thương
nhà / mỏi miệng cái gia gia.
Dừng chân đứng lại:
/ trời, non, nước;
Một mảnh tình
riêng / ta với ta.
(Bà huyện Thanh
Quan)
Các cách ngắt ấy vì ít thay đổi, nên điệu thơ thành ra buồn
tẻ. Tóm lại nhịp điệu ( điệu thơ):
a. Lối thơ cũ thật là buồn tẻ, không thể dùng để
thổ lộ tỉnh cảm của nỗi lòng con người cho thỏa
đáng.
b. Nay các nhà làm thơ mới phỏng theo cách ngắt câu ở thơ
Pháp mà tùy theo tình ý trong bài ngắt câu thành những đoạn dài ngắn khác nhau
không theo lệ định trước. Lại dùng lối đem xuống đầu câu dưới một vài chữ làm lọn
nghĩa câu trên để người đọc phải chú ý đến mấy chữ ấy. Thí dụ 7 câu đầu trong
bài Bóng mây sầu:
Bấy
lâu nay / xuôi ngược trên đường đời
Anh thấy chăng?
/ Tôi chỉ hát, / chỉ cười,
Như
vui sống mãi / trong vòng sung sướng
Là vì tôi muốn /
để cho lòng tôi tưởng,
Không bao giờ /
còn vết thương đau
Không bao giờ /
còn thấy bóng mây sầu
Vương vít nữa./
Bạn ơi / nào có được.
(Thế Lữ)
Tính chất cơ bản trong thơ
mới
Như
đã trình bày ở trên , thơ mới phải có 3 tính chất quan trọng gọi là cốt lõi thơ
mới, đó là “cái tôi” chủ thể nhân vật đại từ, trữ tình lãng mạn và nghệ thuật sử
dụng ngôn từ. Các nhà thơ mới quyết ly
khai với thơ cũ, tìm nguồn cảm hứng mới bằng những sáng tác có giá trị ,
khẳng định vai trò thơ mới trong văn học
Việt Nam, thắng thế trong những cuộc tranh luận giữa thơ cũ và mới, kéo dài 10
năm ( từ 1932-1941) .
Theo Hoài Thanh: "Cũ và Mới khác nhau
chủ yếu ở tinh thần: thơ cũ chứa ta, thơ Mới chứa tôi. Thơ Mới là thơ cũ được
làm mới".
Vậy tinh thần thơ mới là gì ?
Thơ cũ thường dùng chữ TA ít dùng chữ TÔI,
còn thơ mới thường dùng chữ TÔI ít dùng chữ TA. Nói chung tùy trường hợp mà
dùng TÔI hay TA. Ví dụ:
Lũ
chúng TA, lạc loài, dăm bẩy đứa,
Bị
quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh,
Bể
vô tận sá gì phương hướng nữa,
Thuyền
ơi thuyền! Theo gió hãy lênh đênh.
(Phương
xa / Vũ hoàng Chương)
Hay bài "Tôi đưa em sang sông" của
Y Vũ & Nhật Ngân:
TÔI
đưa em sang sông, chiều xưa mưa rơi âm thầm.
Để
thấm ướt chiếc áo xanh và đẫm ướt mái tóc em.
Nếu
xưa trời không mưa, đường vắng đâu cần tôi đưa.
Chẳng
lẽ chung một lối về, mà nỡ quay mặt bước đi.
Vấn đề
lãng mạn trong thơ mới sẽ được trình bày ở phần "Nguồn thi hứng trong thơ
mới" bên dưới.
Về ngôn từ: tùy thuộc ở khả năng mỗi
người.Các nhà thơ cũ thường dùng lối thơ cổ điển Đường thi để ngâm vịnh những
đề mục cũ hay diễn tả nỗi niềm tâm sự bằng ngôn từ đậm màu sáo ngữ, tuyệt
đối bắt chước phong cách các nhà thơ đi
trước, tạo thành những bài thơ có xác mà không hồn! Trải qua mấy trăm năm nền
thi ca Việt nam vẫn lấy nguồn cảm hứng
đó, ca ngợi phong cảnh thiên nhiên sông núi,
đất nước và anh hùng dân tộc. Tình cảm đó như in sâu vào lòng người, nhất là
chuyện ái tình thỉnh thoảng cũng được đề cập nhưng theo một khuôn mẫu khác.
Theo tinh thần mới thì những tình tự, những cảm hứng,
những cảnh vật đều được diễn tả theo phong cách mới.
Đối với các nhà thơ cũ thì thơ phải là cung
đàn muôn điệu, tỏa đủ hương sắc giữa khung trời trăng thanh gió mát lung linh.
Đề tài: "Mai lan cúc trúc" luôn luôn được dùng làm mẫu để tô thắm một
bức tranh thủy mặc, xa rời thực tế
và những khổ đau của người nông
dân tay lấm chân bùn, bỏ quên những con đường nhỏ, loài hoa daị mọc bên đường.
Các cụ dạy con cái phải thấm nhuần triết
lý tam giáo, đạo lý thánh hiền trong việc giáo dục gia đình, giữ lấy đạo trung
hiếu, đạo làm con, nhất là tinh thần Khổng giáo nên các cụ ca tụng gương tốt
của giai cấp quyền cao chức trọng, của con cái nhà quyền quý cao sang mà quên đi những đau khổ những bất công trong
xã hội nhất là giới bình dân, gia cấp thấp hèn. Các quan trong triều, các sĩ
phu trong nước lúc nào cũng sử dụng thơ văn để ca tụng triều đại đang sống dù
sự thật có thế nào. Đó là ý tưởng cũ thời phong kiến.
Những nhà làm thơ mới muốn thoát ly với lề lối cũ để tìm
đề mục mới, nguồn cảm hứng mới thiết thực và gần gũi với đời sống bình thường.
Họ bắt chước cách diễn tả trong thơ văn Phap bằng cách tả tỉ mỉ rõ ràng mà
không phát thảo sơ sài như lối cũ. Tả một người con gái đẹp họ không dùng sáo
ngữ: hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh" .
Ta có thể dẫn chứng bằng hai tác phẩm của hai nhà thơ lớn
của đất nước đã sáng tác thơ theo lối
cũ.
Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu (mà
người miền Nam thường gọi là thơ Lục Vân Tiên) là một cuốn tiểu thuyết về luân
lý, cốt bàn đạo làm người với quan niệm văn dĩ tải đạo. Tác giả muốn đem gương
người xưa mà khuyên người ta về cương thường – đạo nghĩa. Những câu thơ thật
cổ:
"Trai thời trung hiếu làm đầu / gái thời
tiết hạnh làm câu trau mình" một thời được ca tụng là hay!
Truyện Gia huấn ca gồm mấy bài ca dạy vợ,
con, vợ khuyên chồng, khuyên dạy học trò sửa đức, chăm học. Lời văn bình dị,
trôi chẩy, viết trên sáu dưới tám, có khi xen câu bảy chữ ; thỉnh thoảng một
vài chữ ngày nay ít khi dùng đến, chứng tỏ là một tập văn cổ, song không biết
có phải đích thực ông Nguyễn Trãi soạn không. Mở đầu tập thơ Gia Huấn Ca có
những câu như sau:
"Đặt quyển sách, vắt tay nằm nghĩ,
Hễ làm người dạy kỹ thì nên,
Phấn son cũng phải bút nghiên,
Cũng nhân tâm ấy há thiên lý nào".
Lời và ý thơ cũng rất xưa cũ.
Xu hướng chung của các nhà làm thơ mới là
muốn tim ra hướng đi mới cho thi ca bằng cách làm mới tinh thần bài thơ trong
sáng tác, nhưng kết quả tùy thuộc vào tài làm thơ của mỗi người.
Nguồn thi hứng
trong thơ mới
Về mặt này, so sánh với thơ cũ, thơ mới tiến xa hơn,
trình bày cởi mở hơn, chân thành tha thiết hơn, say đắm, nồng nàn và mơ mộng
hơn,
Trước hết Thơ mới mang tính lãng mạn, trữ
tình đầy sóng gió , trao nhau những yêu thương tuyệt vời, những gắn bó
keo sơn, những bồn chồn khắc khoải chờ
mong, những thao thức bàng hoàng, những
mộng mơ sầu thảm ứa lệ, những lâng lâng khi tình yêu vừa đến hoặc vỗ cánh bay
đi, tan vỡ mộng đời. Thơ mới hòa
mình vào thiên nhiên, mượn cảnh tả tình một cách kín đáo thật linh động đầy cảm
xúc trong trái tim con người với những niềm vui, nỗi khổ khôn nguôi .
Đề tài và thi hứng xoay quanh cái tôi lãng mạn có khi dâng cao như sóng vỗ vỡ bờ có khi tĩnh lặng
hắt hiu.
1. Lãng mạn: Thí dụ bài thơ Một chút
tình Lưu
Trọng Lư
Chưa biết tên nàng, biết tuổi nàng,
Mà sầu trong dạ đã mang mang.
Tình yêu như bóng trăng hiu quạnh
Lạnh lẽo đêm trường, giãi gió sương.
2. Trữ tình lâng lâng:Thí dụ bài thơ Chùa hương của Nguyễn Nhược Pháp:
Đêm hôm ấy em mừng!
Mùi trầm hương bay lừng.
Em nằm nghe tiếng mõ,
Rồi chim kêu trong rừng.
3. Trữ tình trong cái
tôi đau đớn, tuyệt vọng:
Thí dụ bài Em lấy chồng của Hàn Mặc Tử:
Ngày mai tôi bỏ
làm thi sĩ
Em lấy chồng rồi hết ước mơ
Tôi sẽ đi tìm mỏm đá trắng
Ngồi lên để thả cái hồn thơ.
Hay bài Hai sắc hoa ty gôn của TTKH:
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi, người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng.
4. Trữ tình trong nét đẹp đồng quê .
Thí dụ bài Chân quê của Nguyễn Bính:
Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió
nội bay đi ít nhiều
5. Trữ tình trong
tình nhớ vấn vương
Thí dụ bài thơ Một mùa đông của Lưu Trọng
Lư
(khổ IV)
Hãy xếp lại muôn vàn ân ái
Đừng trách nhau đừng ái ngại nhau
Thuyền yêu không ghé bến sầu
Như đêm thiếu phụ bên lầu không trăng
Hãy như chiếc sao băng băng mãi
Để lòng buồn buồn mãi không thôi.
6. Trữ tình trong chiến đấu.
Thí dụ bài thơ Tây tiến của Quang Dũng:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm .
7. Trữ tình trong mùa thu.
Thí dụ bài TIẾNG THU của Lưu Trọng Lư
Em không nghe mùa thu,
Dưới
trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo
rực?
Hình ảnh kẻ
chinh phu
Trong
lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng
thu,
Lá
thu kêu xào xạc:
Con nai vàng ngơ
ngác,
Đạp trên
lá vàng khô?
Bài TIẾNG THU trên đây là Thơ 5 chữ, một trong
các hình thức của THƠ MỚI với các đặc trưng vần ôm [1,4-2,3], vần gián cách
[1,3-2,4]
Thơ 5 chữ thường viết thành khổ 4 câu. Bài TIẾNG
THU này lại gồm cả thảy 9 câu.
ĐIỆP NGỮ “Em
không nghe…” được Lưu Trọng Lư sử dụng 3 lần trong toàn bài, ta dễ dàng nhận ra
là Lưu Trọng Lư đã viết một bài thơ 3 khổ, và mỗi khổ có số câu tăng dần 2,3 rồi
4 câu. Đây là một đặc điểm PHÁ CÁCH.
8. Trữ tình lãng
mạn giữa thiên nhiên.
Thí dụ bài Màu
tím hoa sim của Hữu Loan:
Một chiều rừng mưa
ba người anh,từ chiến trường Đông Bắc
được tin em gái mất trước tin em lấy chồng.
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí ….
Trong bài ngoài
2 nhân vật chính là anh lính và người vợ, còn có ba người anh. Ba người anh là
nhân vật có thật: người anh cả là ông Lê Đỗ Khôi, làm Chính trị viên tiểu đoàn,
hy sinh trên đồi Him Lam chỉ vài giờ trước khi trận Điện Biên Phủ kết thúc. Người anh thứ hai là ông
Lê Đỗ Nguyên, tức Trung tướng Phạm
Hồng Cư, làm đến Phó
Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, rể Giáo sư Đặng
Thai Mai. Người anh thứ
ba là ông Lê Đỗ An, tên công tác là Nguyễn Tiên Phong, làm đến Bí thư Trung
ương Đoàn - Phó Ban dân vận Trung ương. Lúc đó cả ba người anh đều đang ở chiến
trường Đông Bắc, do thư từ thời đó vận chuyển khó khăn nên họ nhận được tin em
gái chết trước khi nhận được thư nhà báo tin em lấy chồng. Ngoài ra, bà Lê Đỗ Thị Ninh còn có sáu em trai
và hai em gái, theo gia phả họ Lê Đỗ ( tài liệu Wikipedia).
(Sanjose 15/1/ 2020)
Tổng hợp biên soạn: Nguyễn Cang & Hương Lệ Oanh.
Tài liệu tham khảo:
1.Bàng Lược Đồ Văn Học Việt Nam,
quyển hạ, Thanh Lãng, nhà xuất bản Trình Bày, Sài Gòn 1966.
2.Văn Học Việt Nam, giáo sư Dương
Quảng Hàm, Xuân Thu xuất bản.
3.Việt Nam Thi Văn Giảng Luận Toàn
Tập, Hà Như Chi, nhà xuất bản Sống Mới.
4.Tài liệu văn học trên net.
No comments:
Post a Comment