Tháng
bảy nước nhảy lên bờ
Tháng bảy nước nhảy lên bờ ***Trận mưa gọi là tiểu mãn hồi tháng
ba ngập hết cả ruộng khoai sau rú. Khoai mới hai tháng moi về bốc mùi thối như
phân người, heo cũng chê. Bà con lại mất công gánh đi đổ, phải đổ cho xa nơi ở
để khỏi phải ngửi cái mùi kinh khủng đó. Từ đầu đến cuối làng nồng nặc mùi
khoai thối. Đi họp phân chi hội thằng Thỉ bô bô “đứa mô ăn khoai thúi ni xin
mời ra ngoài cươi (sân) mà ngồi, ngồi trong nhà lỡ… ra không ai chịu
nổi ”. Thỉ gọi tôi bằng chú trong phái. Thanh niên chúng tôi tối nào cũng
họp ở nhà Nhan, cô ấy làm phân chi hội trưởng, nhà Nhan chỉ có hai mẹ con nên
được thoải mái. Có việc cũng họp không có chi thì nói tầm phào cho vui. Tối lại
không biết làm chi, ngồi nhà suy nghĩ nhiều thêm đói bụng.
Vụ đông xuân lại mất mùa. Được bao nhiêu phải bán nghĩa vụ. Mỗi xã viên
chia được vài chục ký lúa. Bà con lên sân đội gánh về nhiều nhất là …rơm. Gió
Lào thổi ù ù qua cánh đồng khô khốc, rát đến ruột gan. Bà con từng đội uể oải
vác cuốc ra đồng cuốc đất thải. Mùa hè thu chỉ sản xuất trên một phần ba cánh
đồng vào những nơi thấp, hoặc có nước tưới.
Ruộng phần trăm * được hợp tác xã chia cho từng hộ để tính vào việc chăn
nuôi. Những khoảnh ruộng được cắm vè, mỗi hộ chừng vài trăm mét vuông. Bà con
đầu tư nhiều phân tro cho đám ruộng cá thể của mình, thường năng suất gấp nhiều
lần so với ruộng hợp tác. Mùa hè thu trước đây gọi là mùa trái, như đánh bạc,
năm được năm mất. Lúa mùa trái năm nay xanh tốt, nhất là ruộng phần trăm. Qua
rằm tháng bảy có đám bắt đầu chín, gọi là lúa đỏ đuôi. Người ta dự đoán là năm
nay mỗi xã viên cũng được mươi thùng lúa. Hy vọng nhen nhúm trong lòng bà con.
Trời báo hiệu mưa bằng những ngọn gió bấc lành lạnh, ráng mây đỏ rực phía
đằng đông, từng đám mây đen kéo về nghịt trời. Sấm chớp phía biển ầm ào dội
vào. Những lão nông lo lắng, chú Gàn buồn rầu nhìn trời than: “Tháng bảy nước
nhảy lên bờ, coi chừng rồi đói ngất ngư cả làng”. Đến chiều dãy núi phía Trường
Sơn chìm trong mây, báo hiệu mưa nguồn. Đến nửa đêm, cơn mưa dội xuống mái tôn
lạt rạt, lào rào. Mưa kéo dài đến sáng. Những chân ruộng thấp nước ngập đến nửa
thân lúa. Nước lên tới đâu bà con lo gặt ruộng phần trăm tới đó.
Tôi mượn chiếc ghe chú Gàn cùng Nhan xuống gặt ruộng Mơn, ruộng phần trăm
của tôi và Nhan sát nhau. Nhan kêu tôi bằng chú chớ không bà con chi. Quê tôi
con gái nhỏ hơn con trai năm ba tuổi là gọi bằng chú, cho ra vẻ …con gái nết
na. Tôi chống sào sau, Nhan cầm chầm bơi trước. Buổi sáng nước chỉ ngang bắp
chân. Hai chú cháu gặt đến trưa nước lên ngang bụng, không còn thấy lúa đâu mà
gặt, lúa cũng gần đầy ghe. Mưa đổ rát mặt. Nhan trước tôi sau đẩy ghe lúa về.
Gió mưa thổi ngược, hai đứa đẩy hết sức mà không nhích lên nổi. Thỉ lội
băng băng trong mưa kêu lớn: “Giữ đừng cho ghe lặn”. Tôi và Nhan cứ bặm môi ghì
chặt hai mạn ghe. Thỉ đến bên nói lớn: “Có cái thau đây nì, để tui giữ ghe cho,
o Nhan tát nước ra đi”. Nhan tát một chặp mỏi tay lại đổi cho Thỉ, hắn tát
thiệt nhanh, một chút đã hết nước. Ghe nổi lên, đẩy nhẹ hơn nhiều. Nhan có vẻ
mệt, mặt tái xanh. Thỉ nhìn Nhan cười cười : “Thôi o ngồi luôn lên ghe cho
khỏe, níu vô ghe thêm nặng”. Đoạn hắn nhanh tay xốc nách Nhan bỏ lên ghe, đưa
cái thau bảo “việc o chừ là tát nước”. Mưa ngớt, nước không còn nhiều, Nhan ngồi
tát từng vệt nước nhỏ như chơi đồ hàng. Mỗi lần Nhan hắt nước là Thỉ đếm “năm,
mười, mười lăm, hai mươi…” rồi cười khềnh khệch “Tướng o mà cũng bày đặt đi cắt
lúa nước lụt, ở nhà chơi đồ hàng với chú Bình cho rồi”. Thỉ nhìn tôi cười châm
chọc.Cặp ghe ở cống nước gần nhà, tôi và Thỉ vác lúa về chất trước sân. Nhan
không vác nổi, ngồi bệt nhìn Thỉ ngại ngùng. Thỉ đưa tay vuốt vuốt đầu tóc ướt
nhẻm, nhìn tôi rồi nhìn Nhan cười cười “Kiểu ni lấy chắc rồi mần chi mà ăn”.
Mưa một đêm tầm tã. Khuya nghe tiếng heo kêu, mạ con tôi thức dậy, nước
đã vào nhà. Lội trong nước bạc lạnh ngắt, bụng đói chân run. Tôi lôi heo lên
bàn giữa, nơi an toàn nhất, nó kêu ré lên rồi nhảy ùm xuống nước. Đèn lại tắt.
Mò mẫm theo tiếng kêu, tôi chụp được chân nó, dùng hết sức lực kéo được lên
bàn. Không biết nó sợ nước hay mệt mà nằm im. Thiệt tình tôi muốn nó chết để
mai được ăn tô cháo lòng cho đã.Nước lên nhanh. Trời chưa sáng đã nghe tiếng í
ới của bà con bên xóm Phường xóm Rào chèo chống ghe lên rú chạy lụt. Nhà tôi ở
xóm chợ, nền cao nhất xóm mà nước đã vô nhà. Theo tính toán của mạ tôi, giờ này
bà con dưới xóm Phường, bên làng Thi Ông, Lam Thủy nước đã chắp mái.
Trời sáng ra. Nước bạc dập dềnh, ì oạp. Nhà cửa tre pheo như thấp xuống.
Những chiếc bè chuối chở theo heo gà kêu inh ỏi lẫn trong tiếng người gọi nhau
ơi ới. Những khuôn mặt chịu thương chịu khó của các mạ các chị dưới vành nón lá
như tóp lại, quắt queo. Rắn nước lội loằng ngoằng trước sân, vào cả trong nhà.
Tôi đánh chết một con quăng ra ngài vườn. Rắn mai rắn hổ leo lên tre vằn vện,
mấy o mấy chị sợ xanh mặt. Quê tôi không ai ăn thịt rắn. Những ngày đói kém,
rắn nước đầy đồng, người ta đánh chết, sình lên hôi thối mà không ai màng đến.
Có lần tôi nói trong Nam rắn này gọi là rắn bông súng, ăn ngon lắm. Chú Gàn rụt
cổ kinh hãi “ăn uống kiểu chi như mọi, chết thì thôi, ai lại ăn uống dữ rứa”.
Nhan vác con heo lứa chừng mười ký, theo sau là chị Nị qua nhà tôi. Nhan
mặc chiếc áo bộ đội rách một miếng trước ngực, lộ một phần bầu vú bên trái. Áo
ướt ngang ngực, mặt Nhan tái ngắt “mệ ơi nhà cháu lút ngang cửa sổ rồi, cho
cháu gửi con heo, gia tài nhà cháu chỉ còn chừng ni…hức… hức, cháu chui vô bụi
tre mới lôi nó ra được đây”. Nhan từng khoe với tôi vài tháng nữa heo đủ bốn
chục ký sẽ đem bán cửa hàng, được bán thưởng hai quần chéo đen. Tôi đón con heo
run lẩy bẩy để lên bàn giữa, nơi mà mỗi lần qua nhà Nhan chưa bao giờ dám ngồi
vào. Con gái đàn bà quê tôi không ai dám ngồi bàn giữa, trước bàn thờ. Heo nhà
tôi đã chết rồi. Con heo nhỏ rúc đầu vào bụng con heo lớn. Mạ tôi đưa tay áo
quyệt nước mắt. Tôi thương mạ quá, quên luôn tô cháo lòng.
Chú Gàn và tôi mổ heo chia thành mười sáu xâu, mỗi xâu trị giá nửa thùng
lúa, bán chịu cho bà con qua mùa năm sau mới lấy. Nhà nào còn lúa đâu mà đong
liền. Bà con giành nhau lấy thịt, nhà tôi để lại hai xâu, chia cho Nhan nửa
xâu. Chú Gàn lấy một xâu, cười hề hề “sang năm đến mùa lên côi rú mà lấy, tau
chọn huyệt rồi”. Tôi lạnh người, Chú Gàn thường nói trước những điều xảy ra.
Như mấy năm trước thấy thanh niên phá bờ thửa để công nghiệp hóa nông nghiệp,
chú Gàn bảo “mần ăn kiểu ni có ngày chết đói”. Chú bày cách tôi gài xe đạp
nước, hai chú cháu vào nước phở **, đạp cả buổi, nước chỉ dồn về một góc
ruộng. Mùa trái đó mấy đám ruộng vừa cải tạo thí điểm bỏ hoang.
Nhớ hồi mới giải phóng, những cán bộ đi tập kết về mở tiệc mời bà con.
Mấy chú ngoài Bắc về làng thuộc thế hệ đàn em của chú Gàn thời chống Pháp, có
người khi đi mới mười lăm tuổi, ra Bắc còn đi học tiếp. Nghe đâu có anh Hạ tốt
nghiệp tiến sĩ ở Liên Sô. Những chuyện kể về chiến tranh sinh động lắm. Bà con
chăm chú nghe, đột nhiên chú Gàn nói lớn: “Ăn đi cho tui ăn với một miếng, nói
chi nói mãi, không thì tui về đây”. Mấy chú kéo lại xin lỗi chú Gàn. Ăn xong
ngồi uống nước, lại chuyển qua đề tài kinh tế. Mấy chú kể ngoài Bắc nhiều mỏ
lắm, nào mỏ thiếc, mỏ chì, có cả mỏ u-ra-ni-um để sản xuất bom nguyên tử. Chú
Gàn bực mình nói trổng: “Còn một mỏ nữa”, bà con hỏi mỏ chi, chú tỉnh queo: “Mỏ
nói láo”.
Tôi trải tấm tôn lên bộ phản, lấy một ít tro phủ lên, bắc kiềng làm bếp.
Nhan đi rút rơm vào, nhen lửa nấu cháo lòng. Nhan đã lấy dây rơm cột lại chỗ bị
rách trước ngực, cười cười “chú cháu mình mà xấu hổ chi, chú hỷ”. Lòng heo
nhiều mà chỉ có nửa lon gạo nên cháo lỏng bỏng. Mạ tôi húp một chén, thở ra,
kêu nhức đầu không ăn nữa. Chị Nị cũng ăn một chén, còn bao nhiêu Nhan và tôi
ăn sạch, còn thòm thèm. Chén cuối cùng Nhan đổ vào nửa muỗng ớt bột, bảo để cay
cho ấm bụng. Mặt Nhan tươi lên sắc hồng, lấm tấm mồ hôi. Cháo lòng hiệu quả
thiệt. Quê tôi ai cũng ăn cay, chắc để đánh lừa vị giác vì thức ăn chẳng có gì,
có cơm là quý rồi, ăn với muối và ớt thiệt cay là ngon nhất! Nhan đổ thêm một
ít nước tráng nồi cháo đem đến cho con heo lứa, nó táp lặp phặp. Số thịt
còn lại mạ tôi muối để ăn dần, thường là để kho với nước ruốc cho có vị béo.
Số lúa gặt chung hôm kia nổi lều bều trước sân. Nhan nghĩ ra cách rang
lúa như làm cốm. Tôi đạp lúa bằng chân một đầu tấm phản, đầu kia Nhan rang. Lúa
chưa chín dai nhách, đạp ê cả chân cũng chỉ được vài lon. Nhan bảo lấy đũa suốt
nhanh hơn. Được một ít lại bỏ vào cối giã, sàng sảy xong được vài chục lon gạo
teo tóp, màu xanh như cốm. Cơm chiều hai nhà lại ăn chung. Gạo non được đổ vài
lon nấu cháo, Nhan cắt thêm bó rau muống đổ vào, bảo “để chắc bụng”, nồi cháo
nửa xanh nửa trắng như cháo heo. Bốn người hì hục húp. Chắc bụng nên ngủ ngon.
Chi Nị, Nhan và mạ tôi ngủ chung giường.
Tôi nằm một đầu tấm phản, cuộn mền nghe ếch nhái kêu, chìm nhanh vào giấc
ngủ. Chiêm bao thấy tôi và Nhan được ăn cỗ, xôi thịt ê hề. Rồi lại thấy cùng
Nhan ngồi ăn chè đậu huyết bên một đống lúa to đùng. Rồi lại thấy Nhan mặc cái
quần Mỹ Á láng tưng, cái áo hoa sặc sỡ. Mông và ngực Nhan đầy đặn như mùa hè
thu năm bảy lăm đi làm cỏ lúa, sợ đỉa đến ngất đi, nằm ngửa trên bờ ruộng, mấy
chị vén áo xức dầu. Khoảng bụng trắng nõn, hé một chút nịt ngực, mấy đêm sau
tôi còn mơ thấy… rồi mộng tinh. Đêm này cũng mộng tinh, điều mà mấy năm này
không có. Cháo gạo mới bổ thiệt!?
Nước lên chậm, chưa có dấu hiệu rút, mấp mem tới rú. Bao nhiêu chuột
đồng, chồn cáo tập trung về những bụi cây dại trên rú. Sáng sớm chú Gàn cõng
con chó Bi ngang nhà tôi, kêu “Bình ơi đi săn”, “đi săn mô”, “Sau rú”. Tôi cõng
con Mực theo. Ngang nhà thằng Thỉ rủ hắn dắt con Vàng cùng nhập hội đi săn.
Chúng tôi đi theo đường đập, hướng về phía rú.
Đập là hai con đê song song của hai làng, giữa là lạch nước chảy trên
lòng cát trắng, gọi là khe. Mùa mưa nước từ những bãi cát rộng lớn, giáp ra tới
các làng biển, tập trung chảy về khe rồi đổ ra sông Vĩnh Định. Nước khe chảy
ngược về hướng Trường Sơn. Nghe nói thời vua chúa, những làng có nước chảy
ngược như thế thường hay làm phản, nên chính quyền Nam triều buộc trước đình
làng phải đúc hai con nghê xây đầu về hướng núi. Những làng quê hiền như đất
như khoai, có ai làm phản gì đâu.
*
Hồi lên năm, trào Ngô Đình Diệm, những đêm mưa lớn tôi đã nghe tiếng ầm
ào của nước khe chảy. Tiếng chú Gàn lẫn trong tiếng phèn la “nứt đập...nứt
đập”. Trai tráng đốt đuốc, vác cuốc chạy rầm rập trong đêm mưa gió, cùng nhau
ra hộ đê. Có lần làng tôi cho người lội qua khe phá đập của làng bên để giảm áp
lực nước cho làng mình. Mỗi lần nứt đập là cát lấp hàng chục mẫu ruộng. Có lúc
hai làng kịch chiến với nhau bằng cuốc rựa. Nghe nói thời trai trẻ chú Gàn một
mình tả xung hữu đột rất kiên cường, mỗi lần vắng chú là làng tôi chịu thua.
Thời đó chỉ có một thôn trưởng với chú Gàn làm xâu mà điều động dân làng nhanh
chóng, hiệu quả vào những lúc gặp thiên tai lũ lụt. Nay nhiều hội nhiều đoàn mà
ruộng hợp tác ngập lụt không ai thèm gặt.
Mỗi mùa lụt về, rất nhiều cá lội ngược khe, tìm về trằm, (vũng nước giửa
cát cây tràm nhỏ) để sinh sản, gọi là mùa cá rải. Cá rải rất dễ bắt. Con nào
bụng cũng đầy trứng lội chậm chạp. Dân làng dàn hàng ngang đứng dưới khe ngước
cá. Mỗi người cầm một cái chơm hoặc rập. Có những bầy cá hàng trăm con chạy
ngược dòng, nước trong đến độ thấy rõ từng chú cá gáy trắng bạc chạy lặc lè
bụng trứng. Bà con chơm cá dễ dàng, cả phụ nữ cũng bắt được những con gáy hàng
chục ký. Cá được làm mắm thính ăn tới tết, trứng cá gáy nấu cháo rất ngon. Đến
mùa đông, cá con xuôi dòng khe về sông, từng vạt đen lội như trôi giữa lòng khe
cát trắng, nước cạn. Trẻ con dùng rập xúc những bầy cá cấn, cá mại, cá gáy con,
cá giếc về kho tiêu ăn ngon tuyệt. Suốt cả mùa đông đến hết tháng giêng chúng
tôi ở ngoài khe nhiều hơn ở nhà. Hơn mười năm được thanh bình sung túc, đó cũng
là mười năm đẹp nhất của làng quê tôi.
Rồi chiến tranh ập đến, bà con ly tán. Đến năm bảy bảy, một con đê chắn
nguồn nước được hoàn thành, gọi là đại trường đê. Nước theo những mương rảnh
mới khơi chảy ra biển. Khe nước không còn chảy mạnh như xưa. Những chuyện trên
chỉ còn trong chuyện kể.
Một nửa xã viên đội chúng tôi là dân thành thị, họ đi lính chế độ cũ hoặc
là viên chức, thầy giáo, y tá… Những năm chiến tranh lan rộng, họ đem vợ con
vào sinh sống ở các tỉnh lỵ miền Trung. Gia đình Nhan cũng dân thành thị từ năm
1960, ba Nhan đi quân dịch đem vợ con theo ở đâu trong Huế. Mùa hè năm bảy lăm
kéo nhau về làng, ai cũng còn chút của nả, ít nhất cũng vài cây vàng, có nhà
còn cả mấy chục cây. Thời mới về làng vui lắm, đi làm ruộng thanh niên còn hút
thuốc Ruby, khói bay là là trên đọt lúa, thơm phức. Những năm thiếu thốn, nhà
nào cũng phải bán dần của cải để mua thêm khoai sắn, một chỉ vàng có khi mua
chưa được vài thúng sắn khô. Đến năm bảy chín thì nhà nào cũng vô sản như nhau.
*
Bầy chó được thả lên đập chạy loăng quăng, con Bi và con Mực sủa đổng vào
những bụi cây hai bên đập. Riêng con Vàng của Thỉ không sủa. Nó không bao giờ
sủa bậy, khi nào có mồi mới sủa, gọi là đánh.
Thằng Thỉ đi trước, hai vai nó xuội xuống như ông già. Thỉ cao một mét
bảy lăm, hồi mới giải phóng, mười chín tuổi, cân nặng hơn bảy mươi ký. Có lần
mấy đứa thách hắn ăn chè, một mình ăn đúng một sải tay mười lăm chén chè đậu
huyết. Hắn từng tuyên bố đủ sức ngủ với con gái cả làng. Tính Thỉ bộc trực tốt
bụng. Mùa gặt nào hắn cũng giành xóc lúa, công việc chỉ có những người mạnh
khỏe mới làm nổi. Hắn nói nhỏ với tôi, một lần đưa gánh lúa lên vai con Nhan
thế nào hắn cũng rờ ngực một cái, không biết có không. Tôi nghĩ là hắn nói dóc.
Mới mấy tháng mà trông Thỉ già đi, mặt cứ buồn buồn. Đời Thỉ là một bi
kịch. Chị Hảo mười tám tuổi lấy chồng, có mang Thỉ được một tháng thì anh
Hà cha Thỉ tập kết ra Bắc. Chị Hảo đẹp lắm. Hồi nhỏ chị hay bồng Thỉ qua nhà
tôi chơi. Chị mê bói Kiều, mỗi lần chú Gàn bói xong là chị khóc. Chú Gàn lại
thích thêm mắm thêm muối, bảo “số chị đa đoan, ít nhất cũng vài ba đời chồng”.
Mà chị đa đoan thiệt. Thằng Thỉ năm tuổi chị lại có mang, nghe nói với một tay
cảnh sát trên quận. Thằng Thỉ em hai tuổi chị lại có mang, lần này nghe nói với
một ông thầy pháp.
Những đêm mùa đông rét căm, hai anh em Thỉ đắp chiếu chuyền hơi ấm cho
nhau. Nhiều đêm Thỉ nằm nghe tiếng thì thào của mẹ lẫn trong tiếng gió rít, với
một giọng đàn ông nào đó. Tiếng rên ư ứ nhanh chậm đánh nhịp cùng tiếng ọt ẹt
đều đặn của giường tre, hòa trong tiếng eo éo của những thân tre cạ nhau ngoài
vườn. Âm thanh đó ám ảnh, nhéo vào nỗi đau của Thỉ, báo hiệu những điều sắp
tới.
Buổi sáng ôm vở ra đường là bị đám trẻ chọc ghẹo bằng bài hát vè:
Mạ ba con lòng còn theo dượng
Dượng chưa qua bắt gà chi mạ
Dượng qua rồi mạ đuổi con đi
Cái mô ngon để dành cho dượng
Cái mô dở để mạ con ăn.
Mạ ba con lòng còn theo dượng….
Đám trẻ vừa nhảy chồm chồm vừa xỉa xói vào mặt Thỉ. Hắn tránh bên nào
cũng bị chận lại. Có đứa còn hỏi “hồi hôm mi chộ mạ với dượng mi mần chi”.
Thỉ cúi đầu, đưa tay áo quệt nước mắt, dật dờ đến lớp. Học đến lớp nhất,
gần hết tiểu học, thì nghỉ, ở nhà giữ em.
Những ngày chị Hảo sinh, Thỉ phải lên bệnh xá trên Đồi Ma chăm sóc. Ban
ngày nách mủng đi xin gạo bà con, nấu cơm rồi bới lên cho mẹ. Ban đêm ở lại
quạt than, phụ chị Hảo xông phây. Có những đêm chị Hảo ngủ, một mình Thỉ thức
quạt muỗi cho em, nghe chim chèo hót kêu, sợ run, lay chân chị Hảo mà khóc: “Mạ
ơi mạ, lần ni nữa thôi nghe mạ, đừng nữa, con cực lắm rồi”. Cứ thế, đến năm bảy
hai nhà Thỉ có bốn anh em, hai trai hai gái.
Năm bảy lăm anh Hà về, chị Hảo ba mươi tám tuổi vẫn còn hương sắc, chị
lại đẻ thêm một đứa. Được vài tháng, anh Hà trở về Bắc với gia đình ngoài đó.
Chị Hảo phát điên, đi lang thang từ đầu xóm đến cuối xóm, hò những câu da diết:
“Gió đưa bụi chuối te tàu, chồng Nam vợ Bắc làm giàu ai ăn”. Thằng út bệnh mất,
vài tháng sau chị cũng qua đời.
Ngày đưa đám bà con đông đủ. Anh Hà không vào. Thỉ đội mũ rơm, chống gậy
đi thụt lùi đưa mẹ về rú. Nó khóc rống lên lúc hạ huyệt, giọng ồm ồm: “ Mạ
ơi… ai mạ cũng thương mà có ai thương mạ mô, mạ ơi… là mạ…”
*
Chúng tôi lên đến rú, chú Gàn kêu: “Thỉ ơi, bữa ni cái khoản cá tràu ra
răng rồi”, Thỉ la lên: “ Xuội rồi ông ơi, con Nhan có cho ngủ e cũng không
mần chi nổi ”. Tôi chọc Thỉ: “Mi nhớ chuyện kim chích vô thịt không”. “Kim
chích vô thịt thì đau, thịt chích vô thịt nhớ nhau suốt đời”. Vừa nói Thỉ vừa
cười toét miệng, ngước mặt lên trời, cái đầu lắc qua lắc lại “bựa ni chộ con
Nhan xanh lét, hôm tê tui bồng lên ghe nhẹ như con nít, hay là ở gần nhà, chú
hay thoèo kèo thoẹt quẹt”, “nói bậy, tau là chú hắn mà”. Hắn nằm ngửa xuống
cát, đập đập hai tay lên đùi, hai chân chọi chọi: “chú mà lấy kim chích mông
cháu”. Tôi nổi cáu trợn mắt: “Mi nói bậy tau đập chết”. Thỉ nhìn chú Gàn như
phân bua, nói tảng lờ: “Hồi nớ đứng gần con Nhan là không chịu nổi, bựa ni thì
mần chi được, đói quá không ngóc đầu lên nổi. Chú nhớ chuyện đi coi phim ngoài
chùa không, hì hì…”
Nhân ngày lễ quốc khánh năm đầu tiên thống nhất, bà con được thông báo sẽ
có đoàn chiếu phim của huyện về phục vụ. Những buổi chiếu phim thường được tổ
chức trước sân chùa. Ăn cơm tối xong là thanh niên trong làng rủ nhau ra sân
chùa sớm để chọc nhau, chờ đoàn chiếu phim lưu động. Con nít và ông bà già ngồi
trước, thanh niên đứng sau. Hôm đó thằng Thỉ tách riêng nói nhỏ to chi đó với
thằng Tám bên đội ba. Nhóm phân chi hội tôi đứng gần nhau. Nhan đứng gần tôi.
Thằng Thỉ cao mà cứ đứng choán trước mặt Nhan, hai tay chắp sau mông. Đến đoạn
phim hấp dẫn Nhan nhón chân để thấy được màn hình, tay níu lên vai thằng Thỉ.
Bỗng nghe Nhan la lên rồi bỏ chạy về. Không ai biết chuyện chi. Hôm sau Thỉ kể
với tôi “con Nhan bị kim chích mông đau quá lắc tới mạnh, nguyên bộ lọt vô tay
tui hết, tui bụm gọn, hì hì…”. Không ai biết thằng Tám chơi trò đó, còn đồn
rằng tôi là thủ phạm. Nhan giận tôi cả mấy tuần, sau lần tôi nghiêm mặt thề
“chú mà làm chuyện nớ là chú chết liền”, mới thôi.
Tiếng con chó Vàng đánh thôi thúc. Chú Gàn bật lên, cầm gậy chạy trước,
tôi và Thỉ chạy sau. Lùm cây trâm bù chỉ cao quá đầu người, bầy chó đang quần
trong đó. Chú Gàn ra lệnh: “Mỗi đứa đứng một góc, chồn chạy ra thì đập”. Chồn
không chạy ra phía chú Gàn, cả ba con chồn đèn bằng con mèo lớn cứ chạy ra phía
tôi đứng rình. Tôi đánh con nào cũng hụt. Ba con chồn lủi vào một bụi khác. Chú
Gàn la lên kêu tôi lại chỉ dẫn: “Ngừa chồn phải ngồi ri nì, đập chồn phải quơ
gậy sát đất. Đập côi đập xuống kiểu thằng Bình trăm con trật cả trăm”. Chú vừa
nói vừa chỉ dẫn từng động tác.
Bầy chó bắt hơi đuổi theo. Lại quần với chồn trong một bụi trâm bù khác.
Tôi ngồi đúng thế chú Gàn chỉ, theo phản xạ tôi quơ gậy đánh thật mạnh ngay đầu
con Vàng vừa ló ra, nó kêu ăng ẳng rồi quay mòng mòng. Tội nghiệp, chỉ một chút
là nó đứng dậy lao vào bụi chiến đấu với đồng đội. Chú Gàn la lên “một tên nì”,
một chút lại la lên “hai tên nì”, rồi “ba tên nì”. Chú kêu lên “Bình ơi, khi
hồi mi chộ mấy con”, “ba con”. “Rứa là hết rồi, mau qua đây”.
Ba con chồn đèn béo múp nằm phơi trên cát. Con Bi và con Mực ư… ư… khoe
chiến công. Con Vàng nằm gối đầu lên chân Thỉ, mắt trợn trừng, máu ứa ra ở
miệng. Nó vừa chết rồi. Tôi vuốt vuốt nhẹ chỗ bụng nó, màu vàng non xép lẹp.
Chắc buổi sáng nó chưa ăn gì. Thỉ nhìn Vàng buồn rầu, mắt rơm rớm. Chú Gàn bình
tĩnh: “Chiến đấu thì có mất mát. Hôm nay mình thắng, một đổi ba. Nhưng đau nhất
là phe ta đánh nhầm phe mình. Rồi chú kể hồi kháng chiến chống Pháp, chú đã
từng nhận lệnh chôn sống đồng đội mình vì bị cấp trên nghi ngờ làm Việt gian.
Chuyện này tôi có nghe kể hồi còn nhỏ. Người ta nói sở dĩ chú Gàn không đi tập
kết vì ân hận. Tôi lại không nghĩ thế, những ngày sống gần mới hiểu thêm về
chú, không như lời đồn đại.
Hồi mới lớn tôi nghe kể rằng chú Gàn làm tổ trưởng du kích trong làng. Đã
từng chỉ huy ba du kích chống lại một đại đội Lê Dương. Chú dàn mặt trận gần cả
cây số dọc con đập. Hằng trăm lính Tây đang dàn hàng ngang trên cánh đồng để
tiến vô làng. Ba người cứ chạy dưới khe, vài trăm thước là lên đập bắn tỉa về
phía địch. Đối phương bị thương tích nhiều, lại tưởng có bộ đội chính quy nên
đến chiều thì rút quân.
Một trong ba du kích đó có chú Toa. Nghe nói chú Toa đã từng làm thông
ngôn cho Tây. Năm 1945 bỏ Tây về làng cùng tham gia cướp chính quyền. Những năm
bốn chín năm mươi thỉnh thoảng có những vụ thanh toán nội bộ, gọi là “xử lý”.
Chú Toa quen miệng nói tiếng Tây. Một lần có phái đoàn cấp tỉnh về thăm làng,
trong buổi hội thảo chú Toa pha tiếng Tây vào. Sau đó bị chôn sống. Bà con nghi
là chú Gàn tố cáo và chôn sống chú Toa.
Đến trào Ngô Đình Diệm, Chú Gàn từ chối mọi đề nghị cộng tác với chính
quyền, chỉ nhận chức làm thằng mõ kiêm giữ rú. Hồi nhỏ tôi cùng bọn trẻ hay đi
mót củi sau rú, mỗi lần thấy chú là bỏ chạy tán loạn. Đứa nào bị bắt là chú
đánh ba roi. Chú thuộc từng bụi cây, ngôi mộ. Rú nhờ vậy vẫn giữ được cây cối,
mồ mả khỏi bị cát lấp.
Ba người cúi đầu im lặng. Gió lào xào thổi rung những bụi trâm bù. Chú
Gàn ngước mặt lên, mắt lim dim nói “Chừ tính răng. Đem con chó về mần thịt hay
cho thằng Rìu”. Thỉ không nói gì, đứng lên, cõng Vàng như kiểu cõng em, hai tay
để lên vai nắm hai chân trước của con Vàng đi về hướng mộ chị Hảo. Đầu Vàng vắt
trên vai như làm nũng với Thỉ. Tôi và chú Gàn đi theo, phụ một tay moi cát gần
bụi trâm bù, bên mộ chị Hảo. Chôn xong Thỉ vơ lá ủ ngụy trang lại, sợ ai đó
biết sẽ đào lên ăn thịt. Cái áo bộ đội sờn vai, máu thấm tới ngực. Tôi ôm chầm
Thỉ, vai hai đứa rung rung. Tôi nói trong tiếng nấc: “Xin lỗi mi, tau tưởng con
chồn”. Thỉ nói chậm rãi: “Chú có lỗi chi mô, số cháu nó rứa, ai thân cũng chết.
Thôi về. Nhà còn hai chai rượu cam ông già gửi vô cúng mạ tui, về nhà tui uống
rượu. Buồn quá!”
Chúng tôi dọn bàn giữa sân, dưới tàng cây ổi. Nước lụt về chiều rút nhanh
để lại những váng phù sa nhớp nháp. Tô thịt chồn hong màu vàng sậm, lắp xắp
nước mỡ. Chú Gàn đem qua mấy củ khoai tía. Thỉ không ăn thịt chồn, chỉ ăn
khoai. Con Bi và con Mực nằm dưới bàn gặm những mẩu xương, nhìn chúng tôi ăn,
mắt nhẫn nhục, chờ đợi, van nài. Thỉ im lặng nốc rượu, mặt từ đỏ chuyển sang
tái.
Buổi chiều lành lạnh trôi chậm chạp. Không ai nói chi. Môi Thỉ giật giật.
Hắn khóc. Hắn đứng lên dùng tay làm loa hướng về phía rú kêu thảm thiết “Vàng
ơi…Vàng ơi…Vàng ơi”. Tiếng kêu loang trong nước lụt vang xa, dội lại những
tiếng "àng…àng…ơi…ơi”. Gió rùng rùng, ngọn tre quỵt xuống vờn lên. Mây bay
thấp từng đụn màu tro sậm. Trời lại chuyển trận mưa lớn. Tôi và chú Gàn ngửa
mặt lên trời, hai con chó cùng ngước nhìn mây, tru lên thống thiết.
Đêm đó tôi chiêm bao thấy mình chôn sống chó Vàng. Mắt vàng trợn trừng
nhìn tôi, không hiểu vì sao tôi chôn sống nó.
Nguyễn Đặng
Mừng
*Ruộng phần trăm: hợp tác xã nông nghiệp để dành năm phần trăm diện tích
ruộng, chia cho từng hộ, gọi là hổ trợ thực phẩm chăn nuôi. Xã viên nhận ruộng
này có nghĩa vụ bán gia súc lại cho nhà nước theo giá thu mua.
**Nước phở: Nước vào ruộng đã được phơi ải. Đất đang khô nóng, cho nước
vào, đất nhủn rất dễ bừa.
304Đen –
Llttm- MT 68
No comments:
Post a Comment