Một chút hoài niệm thời tuổi trẻ
Bộ mặt Sài gòn, lúc 1955, người ta
còn thấy những thầy cảnh Sát được gọi là Mã Tà, đứng huýt còi ở các ngã tư
đường. Vậy mà chẳng bao lâu chữ gọi mã tà đó đã biến mất.
Và sau này, sẽ còn nhiều cái biến mất như thế.
Nguyễn Văn Lục
Người ta vẫn còn thấy những xe thổ mộ
đủng đỉnh, kêu lóc cóc vui tai với các lục lạc của xe ngựa kéo trên các con
đường từ chợ Bến Thành xuống tận Ngã Tư Bảy Hiền, hay từ Bến Thành đi chợ Bà
Chiểu. Nó vẫn như ngang nhiên thách đố với các tuyến đường xe buýt nay đã chật
ních người. Nó vẫn có những khách hàng quen thuộc là những người thuộc giới
bình dân, giới buôn thúng bán mẹt…
Nó chỉ dần dần biến mất lúc nào không
ai hay khi mà những chiếc xe Lambretta ba bánh nhập cảng từ Ý đã được chế biến
lại cùng chạy trên những tuyến đường đó. Xe lam nhanh hơn, chở tới 12 người, 10
người ngồi ở đằng sau, khi cần, có thể ghé thêm hai người ngồi bên cạnh tài xế.
Vậy tất cả là 13 người chứ không 12. Xe lại có nhiều chuyến hơn, cứ đầy là chạy
và ngồi thoải mái hơn.
Đặc biệt bên hai thành xe có ghi hai
câu: “Hữu sản hóa, đợt tự chủ”. Nếu tôi nhớ không lầm chính sách hữu sản hóa
này là ở dưới thời ông Kỳ làm Thủ tướng. Nhưng xe xích lô ba bánh, xích lô đạp,
đặc sản miền Nam vẫn tồn tại trong suốt 20 năm miền Nam còn lại.
Người trung thành nhất với xích lô đạp, phải chăng là thi sĩ Vũ Hoàng Chương?
Có thể ông nghèo vì hút thuốc phiện, nhưng mỗi lần đi dạy ở trường Chu Văn An
ông luôn luôn đến trường bằng xe xích lô đạp. Quần áo luôn luôn là ủi thẳng
nếp, thắt cravate, tay áo manchette bằng vàng, đầu chải bóng.
Người chạy xích lô đạp thường tranh
nhau mời ông không phải vì ông là thi sĩ, mà vì người ông nhẹ như bấc, không
chắc ông có cân nặng bằng nửa số ký của người khác không?
Và có ai ngờ rằng, xích lô đạp vẫn có
chỗ của nó sau hơn nửa thế kỷ sinh tồn.
Sau 30.4.1975, rất nhiều nhà văn, nhà
báo, chuyên viên, giáo sư đổi ra đạp xích lô.
Và tự nhiên nay nó trở thành biểu
tượng nếp sống văn hóa của một thời. Hà Nội nay nhan nhản xích lô đạp dành cho
khách du lịch chạy vòng vòng quanh khu phố cổ Hà Nội. Người ngoại quốc danh
tiếng nào đến Việt Nam thì cũng có dịp ngồi trên đó cả. Vợ chồng Brad Pitt và
Angelina Jolie cũng có dịp ngồi xe xích lô cho biết mùi vị Việt Nam.
Nhưng cái đổi thay rõ nét nhất là cái áo dài con gái thay thế cho chiếc áo bà
ba, chiếc quần hai ống rộng. Chẳng bao lâu sau, chẳng biết từ lúc nào toàn miền
Nam mà đặc biệt các nữ sinh trung Học, từ Sài Gòn ra Trung, từ Sài Gòn xuống
Lục tỉnh. Chỉ áo dài là áo dài. Áo dài Trưng Vương, áo dài Gia Long, áo dài
Nguyễn Bá Tòng, áo dài Nữ trung học Lê văn Duyệt, áo dài Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ
Tho, áo dài Tống Phước Hiệp, Vĩnh Long, áo dài Nữ Trung Học Nha Trang và nhất
là áo dài Đồng Khánh Huế.
Và nó cũng mở đầu cho thiên
tình khúc tuyệt vời Ngày xưa… Hoàng Thị của Phạm Thiên Thư:
Em tan trường về
Đường mưa nho nhỏ..
Anh đi theo hoài
Gót giày thầm lặng
Đường chiều úa nắng
Mưa nhẹ bâng khuâng
Em tan trường về
Cuối đường mây đỏ
Bước em thênh thang
Ôm nghiêng cặp sách
Vai nhỏ tóc dài
Áo em ngày nọ
Phai nhạt mây mầu
Chân tìm theo nhau
Còn là vang vọng …
Nó biểu tượng cho cái gì tinh khiết,
trinh nữ, tinh tuyền và mời gọi. Nó che dấu bằng hai vạt áo dài mà như thể mở,
biện chứng kín mà hở. Nó mời mọc mà kín đáo chối từ, nó bày tỏ phái tính, sexy
đến ứ cổ họng với nét nổi lên của chiếc quần lót hằn lên tuổi dậy thì. Không có
y phục phụ nữ nào trên thế giới lại sexy đến như thế. Ngay cả sau này với
mini-jupe cũng không sánh bì.
Nó không cần đến những Cardin,
Courrèges, St. Laurent, Paco Robanne. Cùng lắm, nó chỉ thua Le Panty, Monokini,
quần lót Le petit bâteau của thập niên 1970. Nhưng những thứ này phải “ăn gian”
từng centimét mới có được như thế.
Áo dài không ăn gian. Cạnh đó là hàng
nút bấm mong manh như lối ngõ vào bên trong nằm hở ra cạnh sườn. Nó không những
chỉ là một nét đẹp con gái mà nó trở thành biểu tượng cho một nếp sống văn hóa
Việt Nam.
Sau này, không biết bao nhiêu những
tranh ảnh, bìa báo Xuân, báo Tết chụp hình các thiếu nữ trẻ miền Nam trong
chiếc áo dài truyền thống đó.
Và người ta có thể hãnh diện về điều
này mà không có gì phải hổ thẹn khi nói đến tuổi thanh xuân thiếu nữ đi liền
với nét đẹp con gái ấy. Nó phản ánh thế hệ thanh thiếu nữ thời ấy mà hễ bất cứ
ai không còn là con gái, xồ xề một chút, vùng đùi, vùng mông nở nang một chút
là mặc áo dài thường khó coi.
Sự đòi hỏi của tôi có khắt khe quá
chăng? Nhưng chính sự đòi hỏi khắc nghiệt ấy làm tăng giá trị chiếc áo dài miền
Nam tuổi trẻ. Nhiều phụ nữ các bà mặc trong các dịp lễ hội. Thấy làm sao.
Rất tiếc sau 75, ra ngoài đường, Sài
gòn vắng bóng chiếc áo dài. Cũng là vắng bóng tuổi trẻ miền Nam? Hay tuổi trẻ
miền Nam không còn nữa? Người ta không còn phân biệt ai là con gái, ai là đàn
bà được nữa đến như thể ai cũng là đàn bà, đến như thể ai cũng mất cả rồi.
Khi không còn những áo dài đó, Sài
gòn buồn thiu. Như cây rừng không còn lá.
Tuổi trẻ miền Nam thời ấy biểu tượng
vẫn là hình ảnh cô thiếu nữ mặc áo dài trắng quần trắng. Đừng thứ mầu khác,
đừng xanh đỏ lò loẹt. Vén tà áo dài sang bên, hở một bên, kín một bên, cho thấy
đùi trinh nữ, cho thấy tuổi dậy thì, hai đùi nhẹ khép lại khi bước đi hay khi
ngồi trên chiếc xe vê lô sô lếch thời thượng.
Bây giờ, tôi không thấy những bước đi
kiêu sa thiếu nữ như thế nữa. Đó là hình ảnh cô gái, mình ong thon thon ngồi
trên chiếc xe Solex trông giống như một con bọ ngựa biết bay. Phất phới, tung
gió, nhẹ lướt, mái tóc hất lại đằng sau, đầu buộc bím mầu xanh tím, để lại đằng
sau những cái nhìn dõi xuôi bắt không kịp. Và những đôi mắt thèm thuồng.
Ingarary gọi đó là một chuỗi diễn
hành phái tính (Mascarade de la fénimité).
Xin mượn lời thơ của Nguyên Sa:
Giấc mơ em mặc jupe hồng… thôi rồi
Sài Gòn ơi!
Có phải em mang trên áo bay
Hai phần gió thổi, một phần mây
Hay là em gói mây trong áo
Rồi thở cho làn áo trắng bay?
Em cười tà áo bay trên
Đám mây ở dưới nỗi phiền muộn xa
Anh ngồi chỗ hẹn hôm qua
Đám mây ngồi cạnh bài thơ nhẹ nhàng,
Giấc mơ mặc áo lụa vàng
Nơi anh nằm ngủ có hàng Thùy dương
(Nhẹ nhàng) (1)
Trong khi đó thì những cậu con trai
cỡi xe Vespa, đời ED, đôi kính mầu đen, chiếc áo Montagu, mầu xanh đậm rồ ga
hay lượn uốn éo. Nếu Solex là con gái, thì Vespa là con trai. Nếu Solex là con
bọ ngựa thì Vespa là con bọ hung. Solex là nữ tính, Vespa là nam tính (2).
Nếu con gái ăn quà thì con trai bát
phố. Bát phố phải chăng là nói nhại từ tiếng Pháp battre le pavé? Thôi thì là
gì cũng được. Và xin mượn lại chữ nghĩa của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng:
… Từ xa phố chợ đến giờ
Chân thôi bỏ lệ gõ bờ lộ quen (3)
Đi dạo phố trở thành một thói quen,
một nếp sống của con trai Sài gòn. Ngoài Sài gòn, tôi chỉ thấy ở Huế có sinh
hoạt bát phố tương tự. Nhưng ở Huế, số con gái đi dạo phổ kể là đông và đi từng
nhóm hai ba cô. Họ sợ bị bắt nạt chăng? Cô nào cũng có chiếc nón không phải để
che nắng, che mưa mà để che cái nhìn trộm của con trai. Gái Huế đi dạo trên
đường Trần Hưng Đạo mới thật là một diễn hành phái tính. Mười lần ra Huế thì y
như rằng ra đi là để lại một điều gì…
Con gái biểu tượng nhất, cái Look
theo nghĩa bây giờ là hình ảnh cái thân hình dong, lưng thẳng, găng tay trắng,
cặp kính mầu, áo dài trắng, phải áo dài trắng mới được, mới con gái, mới trinh
nữ, mới thanh khiết. Vạt áo dài phía sau vắt ngang sang bên kia để hở một bên
phần đùi trên chiếc vê lô solex mầu đen. Đi xe vê lô solex chứng tỏ con nhà khá
một tý, sang trọng và đài các. Cái dáng ngồi solex trông rất con gái, rất phái
tính.
Bát phố là một thứ giải trí chiều thứ
bảy của con trai Sài gòn. Mà điều căn bản là có mặt. Làm gì, bận bịu gì cũng bỏ
đi Bonard bát phố. Sinh viên, học sinh các lớp tú tài, lính tráng đi hành quân
ở xa về, công chức các bộ, các nha đều đi dạo phố, ngắm người hay rửa mắt. Mà
phần lớn bọn họ là độc thân, chưa có vợ con. Nếu sang một tý thì vào Givral
ngồi, tàm tạm thì một ly nược mía Viễn Đông cũng xong.
Người phụ nữ sinh ra là để như vậy. Les
femmes seraient faites ainsi.
Quyến rũ bằng chính thân xác mình.
Nhờ áo dài đó mà phụ nữ, cô nữ sinh
trở thành phụ nữ hơn. La robe lui permettait de devenir plus féminine. Phải nói
là thời thượng và ấn tượng lắm. Cộng thêm cái thói ăn quà vặt. Ăn quà vặt là
rất con gái, rất trẻ, rất bắt mắt. Khi cô nữ sinh ăn quà thì tưởng là ăn quà
thật. Nhưng đôi khi cũng chỉ là cái cớ sự cho sự trình diễn, sự được nhìn. Nó
như chờ đợi một điều gì đó. Điều mà Thị Nở đã chờ đợi từ tuổi 15, 16 thời con
gái, nay đà 30 và bao nhiêu thế hệ con gái cũng đã chờ đợi như thế. Như cơn mưa
mùa hạ. Như chồi non hé nụ. Như em chờ anh lúc này. Chí Phèo chỉ đến hoàn tất
công việc chờ đợi ấy.
Cuộc đời đôi khi đơn giản là như thế.
Ngoài hai thứ đó ra, con gái cũng đi
dạo phố. Con trai đi dạo phố là để ngắm. Con gái đi dạo phố xuất hiện như một
trình diễn, ăn diện, mốt, kiểu để được nhìn, để được thừa nhận, để nhận phần
lớn là những lời tán tỉnh, khen tặng.
Đó là cả một cái guồng máy của sự
xuất hiện. L’engrenage du paraitre .
Và cuối cùng, thú vui giải trí chung
cho cả con trai lẫn con gái vẫn là ciné và tiệm sách. Ciné là nơi hẹn hò để
trai gái gặp nhau cuối tuần để trò chuyện, để tỏ tình, để lén lút hôn nhau.
Những nụ hôn mật ngọt ấy. Quên sao được. Những mối tình của giới trẻ thời đó
đến đó và dừng lại ở đó. Sau đó để lại một chút gì. Để kỷ niệm, để nhớ, để mãi
mãi là như thế.
Nay gặp nhau cuối đời, lòng như chợt
tỉnh, như trấu ủ bếp lửa bừng lên từ đám tro tàn. Gặp nhau muộn phiền, thương
hoài ngàn năm.
Viết đến đây lại chợt nghĩ đến Nguyên
Sa. Ông đã nói hộ cho tuổi trẻ Sài gòn:
Nắng Sài gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu mầu áo ấy vô cùng
Tuổi trẻ miền Nam là như thế. Lành
mạnh mà không thiếu lãng mạn, tình tứ. Dắt tay nhau mà đi. Làm thơ tình. Gởi
gắm nhắn nhe.
Chân díu bước mà mắt nhìn vương vướng
Nàng đến gần tôi chỉ dám quay đi
Cả những giờ bên lớp học trường thi
Tà áo khuất thì thầm chưa phải lúc
(Tuổi mười ba)
Nhưng may thay, mọi người Việt Nam,
nhất là thanh niên, giới trẻ, lúc bấy giờ đều có một giấc mơ là làm thế nào để
có một miền Nam phát triển và phú cường.
Và mặc dầu còn có những bất cập đủ
thứ, tôi vẫn phải nhìn nhận rằng, những năm tháng còn lại, kể từ ngày ấy, mỗi
giây phút năm tháng sống, học hành, lớn lên thành người thời đệ nhất Cộng Hòa
Việt Nam vẫn là những năm tháng ân sủng cho tuổi trẻ của tôi và những bạn bè
cùng trang lứa.
Chúng tôi đã lớn lên từ đó, trở thành
người hữu dụng cũng từ đó.
Như lời Phạm Duy tỏ bày: ”Dưới thời
Cộng Hòa thứ nhất, từ khi chế độ nhà Ngô thành lập và tiến dần tới thời thịnh
trị rồi mạt vận, miền Nam, nếu chưa được là thiên đường của đông đảo văn nghệ
sĩ đi tìm tự do thì cũng là nơi đất lành chim đậu. Một thế hệ văn nghệ sĩ mới
đã thành hình và họat động dữ dội bên những vị đàn anh di cư từ miền ngoài.
Phòng trà, tiệm bánh, quán nước như Kim Sơn, Mai Hương, La pagode, Givral,
Brodard… là nơi không hẹn mà văn nghệ sĩ tới gặp nhau hằng ngày.”
Trong chín năm cầm quyền thời Tổng
Thống Ngô Đình Diệm, chỉ có ba lần có những biến động chính trị. Nhưng chỉ riêng
năm 1964, có 13 lần miền Nam rơi vào những biến động có thể làm lung lay nền
Cộng Hòa. Nói như thế để thấy rằng sự ổn định chính trị nằm ở thời điểm nào.
Người nào không nhìn nhận những điều
ấy thì chỉ thiệt thòi cho chính họ thôi, bởi vì họ tự mình bôi xóa tuổi trẻ của
chính họ. Nhiều người đã bôi xóa như thế để chạy theo vài ảo tưởng chính trị,
hoặc nếu ở ngoại quốc thì chạy theo những xu hướng thiên tả vốn chẳng dính dáng
gì đến thực tế chiến tranh Việt Nam.
Nguyễn Văn Lục
Chú thích:
(1) Trích lại trong Trong dòng cảm thức Văn Học miền Nam của
Trần Văn Nam, trang 411-412
(2) Dĩ nhiên, sau velo Solex thì cũng có một số xe hiệu khác như xe gắn máy
hiệu Goebel, Sach của Đức. Có thể nó hữu dụng, nhưng trong bề ngoài khó coi, dị
tướng. Rồi cái PC nhỏ nhắn, xinh sắn, xe đạp Mini cũng một thời cho đến lúc
xuất hiện xe Honda 67. Chiếc xe Honda đến thay đổi hẳn diện mạo xe gắn máy ở
Sài gòn. Hữu dụng, mát mắt, vụt phóng, không cần phải đạp ga ì à ì ạch.
(3) Trích Bùi Bảo Trúc trong bài Chữ Nghĩa chúng ta.
304Đen – llttm -sgtc
No comments:
Post a Comment