Một Chút Văn Khoa Sài Gòn Năm 60
(TVVN.ORG) Sau một vòng dạo đường sách, con
đường nay được coi như bộ mặt văn hóa của thủ đô Sài Gòn, với nam thanh nữ tú,
với du khách thanh lịch, với người có nhiều ái lực với văn chương… chúng tôi
vào quán cà phê ngồi vừa nói chuyện về những quyển sách xưa nay mà cả hai cùng
thích vừa ngắm hoạt cảnh sau cửa kiếng. Người chơi sách trẻ đi cùng chợt hỏi
giọng rụt rè ‘Bác có quen với nữ văn sĩ Nguyễn Thị Hoàng không, cháu nghĩ là cô
Hoàng đồng thời với bác’.
Câu hỏi làm quá khứ hiện về trong trí
với khu Đại Học Văn Khoa chật hẹp ở góc đường Nguyễn Trung Trực và Gia Long một
thời tuổi trẻ chúng tôi. Thời chưa có xuống đường ồ ạt của tuổi trẻ tự dấn thân
hay bị giật dây, chưa có những biến động chánh trị thay chúa đổi ngôi như chong
chóng, người sinh viên chúng tôi chăm chú vào việc trau dồi kiến thức để tạo
lập hành trang cho chính mình trước khi thiệt sự bước chưn vào đời. Thời của
những vô tư với tiếng súng đì đùng thiệt xa ngoài kia, mơ hồ sương khói. Thời
người sinh viên chưa lo lắng về tấm Giấy Gọi Nhập Ngũ của Chuẩn Tướng Bùi Đình
Đạm sau nầy khi chiến tranh đã lên cao điểm. Tôi trả lời thiệt tình:
‘Đồng thời thì đúng nhưng quen biết
thân tình thì chưa được cơ duyên’.
Ánh mắt ngạc nhiên dò hỏi của người
bạn trẻ chiếu thẳng lên tôi rồi quay qua chỗ khác liền. Anh có vẻ ngạc nhiên về
lời thú nhận của tôi. Trầm ngâm một lúc hèn lâu tôi mới nói như tâm sự:
‘Nữ sĩ cùng trạng tuổi, cùng một lớp
ở trường năm ấy nhưng lúc đó như có một sự cách biệt lớn giữa nhóm nam sinh
viên ‘nhà quê’ chúng tôi với nhóm các cô ‘rất sang trọng’ ấy’.
Nói tới đây tôi chợt nhớ đến ba nhóm
nữ sinh viên chơi thân với nhau, mỗi nhóm chiếm lĩnh một vị trí trong Giảng
Đường 1 ngoài sau cầu thang, ngó qua khu đất trống sau nầy biến thành Thư Viện
Quốc Gia mà nay là Thư Viện Tổng Hợp của thành phố Sài Gòn. Thuở ấy, không biết
từ bao giờ, chúng tôi có quy ước bất thành văn là hễ có quyển tập, túi xách nào
đặt lên bàn có nghĩa là ghế đó đã có người. Và không ai tranh cãi dầu cho nhiều
khi ghế xí phần đó không ai vào ngồi. Thông lệ mỗi nhóm nữ thường cắt ra hai cô
đi rất sớm xí chỗ trước. Với ba nhóm của các cô, bọn nam sinh viên chúng tôi
dầu đi sớm cách mấy cũng thường đành chịu ngồi phía sau. Xa thầy, giảng đường
bao la, nghe bài giảng tiếng được tiếng mất cũng đành chịu, chẳng lẽ xen vào giữa
những tà áo dài đầy màu sắc ấy. ‘Coi sao được’. Chúng tôi bảo với nhau như vậy
và chấp nhận ngồi phía sau, bất lợi về mặt thâu lượm kiến thức nhưng được cái
là có dịp chiêm ngưỡng những cái ót trắng đẹp, những lọn tóc lòa xòa cố ý,
những mái tóc thề cắt ngang rất thẳng hay những tà áo hở chút vai gần cổ… để
trí tưởng tượng có dịp vân du phiêu bồng…
Tôi nói hơi chi tiết để người bạn trẻ
hiểu:
‘Năm 1954, đất nước bị chia hai. Nỗi
đau buồn vì vận nước ai cũng có, nhưng rồi chánh quyền trách nhiệm phần đất của
mình phải bắt tay thực hiện những gì cần thiết để tạo thành một quốc gia.
Trường Đại Học Văn Khoa trước đó miền Nam chưa có, được thiết lập từ một bộ
phận giáo sư ít ỏi bỏ miền Bắc vào Nam. Sau một thời gian chấn chỉnh, khai
giảng năm đầu tiên 1955-1956, với một vị Hán học thâm niên làm khoa trưởng. Mấy
năm sau đó, vào niên học 1960-1961 mà chúng tôi hân hạnh tham dự, trường tương
đối đã đi vào nền nếp với vài ba vị tiền bối được cấp văn bằng cử nhân là văn
bằng cao nhứt lúc đó như Lữ Hồ Nguyễn Minh Hiền, Phạm Thế Ngũ, Lê Hữu Mục,
Trịnh Văn Thanh… và một người là Thích Nhất Hạnh sau nầy.
Giáo sư khoa trưởng thời 1960 là cụ
Nguyễn Huy Bảo, một người theo Tây học. Cụ không đồng ý loại bỏ hẳn ảnh hưởng
của Pháp nên tổ chức năm thứ nhứt Văn Khoa gồm hai hệ: Dự Bị Việt dành cho sinh
viên học chương trình Việt dưới trung học và Dự Bị Pháp, dành cho sinh viên
trước đây theo chương trình Pháp, gọi là lớp Propédeutique française. Nói thì
nói vậy, nhưng ai muốn ghi danh hệ nào cũng được, tùy theo ý thích của mình. Năm
thứ nhứt chia như thế nhưng sinh viên sau khi học xong thì theo hệ thống chứng
chỉ, chọn những chứng chỉ nào mình nghĩ là phù hợp để hoàn tất văn bằng cử nhân
sau bốn chứng chỉ. Lúc nầy hai hệ đã hòa lẫn nhau vì nhiều chứng chỉ có cả giáo
sư Việt và Pháp, nhứt là các chứng chỉ thuộc nhóm Địa Lý, Lịch Sử và Triết Học.
‘Hình như là cô Ngô Đình Lệ Thủy học
Dự Bị Pháp năm đó. Bác có nhớ gì về cô ấy không?’
Tôi mơ màng, trầm ngâm khi nhớ đến sự
bất hạnh cuối đời của người thiếu nữ duyên dáng nầy:
‘Lệ Thủy học Dự Bị nhưng sau nầy kìa,
hình như là niên khóa 62-63. Vì có hai lớp Dự Bị nên các sinh viên gọi là cùng
học năm thứ nhứt nhưng cách biệt lắm. Dân Dư Bị Pháp hào hoa sang trọng, nói
chuyện với nhau bằng tiếng Pháp lưu loát, giọng Pháp chuẩn vì họ học ngôn ngữ
nầy từ nhỏ, sử dụng tiếng Pháp hằng ngày với dàn giáo sư hầu hết từ Pháp qua.
Họ ghi tên nhưng với tâm trạng tạm thời để chờ ngày đi du học Pháp, Anh. Dân Dự
Bị Việt thì nhà quê hơn, ít thời thượng và nói tiếng Việt. Tương lai của họ là
ở trên đất nước nầy nhưng vì trở ngại ngôn ngữ nên các trào lưu văn học và
triết học Âu Châu chỉ biết sơ sài. Tôi thuộc lớp nhà quê nầy mà là nhà quê bực
hai vì mình ngố giữa đám đông các bạn thuộc gia đình tương đối giàu, ăn mặc
đúng kiểu: Giày da bóng, quần jean bằng vải nhung mới, lúc đó chưa có mode xé
rách đầu gối hay cắt cụt tối đa như bây giờ, áo Montagut mỗi ngày một màu trang
nhã, sơ mi dài tay, manchette double có gài nút đắt tiền… Họ nói chuyện văn
chương triết lý cao xa từ những quyển sách mới xuất bản, ít người biết, được
gởi thẳng từ Pháp về qua nhà sách Việt Bằng ở đường Lê Lợi… Họ ăn uống ở nhà
hàng Thanh Bạch, La Cave hay ngồi ghế cao cẳng trong khu cinéma Lê Lợi thưởng
thức cà phê phin, ăn bánh mì chiên xịt maggi nhập cảng, hoặc cầm tay đào dạo
passage Eden, khu phố Charner (sau nầy là passage Tax), ngồi nhà hàng La
Pagode, Givral, Pole Nord tán gẫu trong những giờ không có lớp…’
‘Và cô Ngô Đình Lệ Thủy?’
‘Đó là một cô gái tương đối đẹp. Nhu
mì, mềm mỏng. Lúc nào cô cũng có ba bốn người hộ vệ, họ không dữ dằn hay vô
phép gì nhưng luôn luôn ngó chừng với cặp mắt nhà nghề lưu ý ai đến quá gần ái
nữ của ông cố vấn họ Ngô Đình. Thường bọn nhà quê chúng tôi kháo nhau hôm nay
có Lệ Thủy đi học và đến nhìn. Bao giờ cô ấy bị ai đó nhìn nhiều thì đều mỉm
cười gật đầu chào thân thiện rất Tây phương để người đó biết ý mà tiến tới làm
quen hay lãng xa’.
Người bạn trẻ ranh mãnh với nụ cười
nửa miệng:
‘Bác có được chào thân thiện?’
‘Dĩ nhiên là có, vài ba lần vì tò mò,
nhưng đến gần để làm quen thì không. Mình vốn nhát làm quen với bất kỳ ai, vả
lại cũng sợ cô ấy xổ tiếng Tây mình ú ớ mặc dầu các bạn đều quả quyết rằng với
người không quen cô ta đều nói tiếng Việt’.
‘Hai hệ thống giáo dục làm phân cách
một thế hệ thanh niên cùng thời đại… !’. Người bạn trẻ của tôi trầm ngâm một
lúc rồi đưa ra nhận xét.
‘Không ai muốn có hai hệ thống giáo dục trong một nước. Ngày đó có hiện tượng
tréo ngoe nầy vì hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc đương hiện diện cần thời
gian để được thay thế sau khi nước nhà độc lập, thời gian đó chưa thực sự dứt
điểm’.
‘Vậy mà bây giờ chúng ta đương có hai
hệ thống!’. Tiếng người trẻ tuổi thoát ra mau như tên bắn nhưng với giọng buồn
như tiếng than.
Tôi trầm ngâm một lúc lâu, uống nhiều
hớp nước mới nhỏ nhẹ:
‘Do sự phân cách quá xa giữa các đại
gia giàu xụ dính dáng đến chế độ và lớp dân đen cùng đinh nghèo khổ kiếm từ
ngàn, nuôi con được đi học là may!’. Tôi lơ đãng ngó ra ngoài rồi chuyển hướng
câu chuyện: ‘Hình như chúng ta đi lệch đề tài lúc ban đầu. Em hỏi về nữ văn sĩ
Nguyễn Thị Hoàng?’.
Người thanh nên gật đầu bẽn lẽn.
Tôi tiếp moi từ ký ức xa xôi của hơn
nửa thế kỷ lâu ngày nằm yên trong não bộ.
‘Nếu Văn Khoa được nhắc đến nhiều vì
có Ngô Đình Lệ Thủy sau nầy thì trước đó hai niên khóa đã có Nguyễn Thị Hoàng.
Dĩ nhiên là trong cái nhìn chủ quan của tôi và vài ba người bạn tôi lúc đó. Chị
ấy có cái đẹp mặn mà, sang trọng. Chúng tôi thấy nét quý phái của chị trong
từng cử chỉ nghiêm trang hay trong nụ cười thân thiện. Cùng học một lớp nhưng
hầu hết bọn tôi đều coi chị như một người đàn chị trong dáng đi điệu đứng hay
cách nói chuyện với bạn bè nam cũng như nữ. Tất niên năm đó, nhớ không lầm, thì
chị đứng lên ứng khẩu bài nói chuyện bằng tiếng Anh rất lưu loát. Giáo Sư Mc
Kenzy, người Tân Tây Lan dạy môn Anh Văn cho năm Dự Bị Việt chúng tôi đã đeo
theo nói chuyện với chị hàng giờ liền. Trong nhóm bạn của chị Hoàng có vài chị
cũng đẹp và giỏi Anh ngữ, họ đối đáp với thầy mà tôi tưởng là họ thuộc nhóm
theo hệ Dự Bị Anh. Các chị ấy hầu hết sau nầy đều tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm
ban Anh văn hay cử nhân Anh văn dễ dàng. Có một chị rất thành đạt tôi gặp ở
Houston, Texas. Mấy chị khác hầu hết lập gia đình với những người có chức phận
nên ít xuất hiện, họ không trở thành người của đám đông’.
‘Thầy giáo nói chuyện quá lâu với
sinh viên có bị tai tiếng cho hai phía như thời nay?’.
‘Có bạn thời đó như anh Nguyễn Tăng
Uyên sau nầy dạy ở trường Sư Phạm Cộng Đồng Long An, quả quyết với tôi là GS.
Mc Kenzy say mê một bóng hồng trong nhóm, tôi xin không nói ra là ai. Chuyện xa
xưa rồi, xác nhận rõ ràng chẳng ích lợi gì. Khoảng cách thầy trò chưa đầy 10
tuổi là yếu tố để gánh những tiếng xì xầm. Một người bạn khá thân của tôi lúc
ấy là anh Trương Kim Chung (đã mất) lại quả quyết có chị Bích T. thích ông Mc
Kenzy. Hai năm sau gặp lại, anh vẫn xác nhận điều đó, tuy rằng hai người trong
cuộc chẳng tiến xa gì hơn, ông thầy Anh văn của chúng tôi về nước liền sau niên
học ấy…’.
Tôi thấy mình không nên đi quá chi
tiết cá nhân:
‘Tại sao em hỏi về nhà văn Nguyễn Thị
Hoàng?’
‘Em muốn xin vài chữ ký cho bộ sưu
tập tác phẩm có chữ ký của những nhà văn tên tuổi Sài Gòn độ trước. Chữ ký của
nhà văn Nguyễn Thị Hoàng rất khó tìm, kể cả sách từ trong tủ của cụ Vương Hồng
Sển hay của GS Nguyễn Văn Trung.’
‘Chị Hoàng rời trường sớm để trở
thành một hiện tượng văn nghệ thời đó…’
‘Vòng Tay Học Trò đăng trong tạp chí
Bách Khoa xôn xao một thời…’
‘Tôi nghĩ rằng nhà văn Nguyễn Thị
Hoàng đã phát pháo cho phong trào các nhà văn nữ viết mạnh, dám nói những điều
thầm kín mà các cây bút trẻ trước đây khi muốn viết cũng phải ngập ngừng. Những
Trùng Dương, Nhã Ca, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Túy Hồng, Trần Thị NH., Âu Thị Phục An
và cả Lệ Hằng có thể nói là đã tin tưởng hơn những gì mình sắp viết sau khi
Vòng Tay Học Trò ra đời’.
‘Ngay cả Chu Tử với những đề tài liên
quan nhiều đến phụ nữ trẻ cũng là chịu ảnh hưởng xa gần của nhà văn Nguyễn Thị
Hoàng’.
‘Bác nghĩ sao về trường hợp Lê Xuyên
với những nhân vật nhí nhảnh và nói năng liều mạng như Phấn và mấy cô gái khác
trong những tác phẩm của ông (?)’.
‘Nhà văn nam chịu ảnh hưởng cách
khác, nhà văn nữ chịu ảnh hưởng cách khác. Nam chú trọng đến ‘hành vi buông
thả’, tới ‘lời nói bán trời’ của các cô gái, nữ chú trọng đến ‘nội tâm’ của
người hành động và ‘những biện minh cho hành động của mình’. Dầu thế nào đi nữa
họ cũng cảm thấy sao sao ấy khi cho nhân vật mình có những hành vi đi quá hơn
cái bình thường của thời đại. Sao sao ấy là sự trói buộc, là những cấm kỵ theo
quan niệm đạo đức của xã hội đương thời. Nhìn chung người phụ nữ trong văn
chương thời thập niên 60 đã được cởi trói về mặt tính dục qua sự phát pháo của
nữ sĩ Nguyễn Thị Hoàng, dầu là còn giới hạn, chưa tung hê tất tật như Hồ Xuân
Hương ngày trước hay như hai ba nhà văn nữ nổi tiếng viết bạo dơ dáy quá đáng ở
hải ngoại hay trong nước gần đây’.
‘Chắc là những người nầy muốn đi
đường tắt vào văn học’.
Tôi cười nói rằng em phê như vậy là
quá đáng, khi phê bình không được hạ nhục người ta.
Người đối thoại trầm ngâm trong bối
rối. Tôi hớp từng ngụm nhỏ ly cà phê đen trước mặt, nhớ đến những vị thầy của
thời xưa đã góp phần đào tạo trí thức cho chúng tôi. Cụ Sa Minh Tạ Thúc Khải
dạy Hán văn quá cao vì chú trọng đến nguyên nguyên cả bài thơ. Cha Larre, dạy
Hán Văn quá thấp vì muốn cho học trò có căn bản ngay từ bước đầu, cụ Vương Hồng
Sển suốt năm dạy không thấy có một chương trình cụ thể nhưng đã đem cho họ trò
những kiến thức đặc biệt không dễ gì có. Tôi nghĩ đến cụ Sển mà ngờ ngợ, không
nhớ rõ cụ dạy chúng tôi năm Dự Bị hay năm chứng chỉ Văn Chương Quốc Âm. Tôi
cũng nhớ đến bà GS. Quách Thanh Tâm và phụ khảo Nguyễn Thị Bình Minh kẻ tung
người hứng môn Địa Lý Nhân Văn rất khác lạ đem lại thích thú cho người học. Cụ
Nguyễn Đăng Thục, thầy Nguyễn Khắc Hoạch đã giảng với sự sâu xa và đầy hứng thú
đã mê hoặc một số sinh viên sau nầy đi vào con đường nghiên cứu của các thầy…
Tất cả đều có thể đã quá vãng, sáu mươi năm học trò còn chịu không nổi cái búa
của thời gian huống chi là thầy lớn hơn trò tròm trèm ba chục tuổi’.
‘Bác có không vừa lòng ai trong số
các giáo sư thời đó?’.
‘Chúng tôi thời đó rất trọng thầy. Ai
mình cũng thấy xứng đáng là nhà mô phạm, xứng đáng là người hướng dẫn tâm hồn.
Cho tới bây giờ sự kính trọng đó vẫn còn, mặc dầu có trường hợp sau nầy chánh
kiến khác nhau như vị thầy đã thoát ly theo MTGPMN hay vị thầy quá ủng hộ chế
độ mới và nhận được nhiều ân sủng. Chỉ có điều là sinh viên Văn Khoa là những
người thích đọc sách. Trong hai năm chót của Trung học họ đã thủ đắc một số lớn
kiến thức sách vở, trong năm Dự Bị họ lại có thời giờ nghiền ngẫm một số lớn
tác phẩm danh tiếng đương thời nên nếu vị giáo sư nào ít chuẩn bị bài dạy hay
chỉ lập lại theo sách xưa mà không có ý kiến gì đặc biệt hoặc vô lớp chỉ đọc
bài, không giảng thêm, thường bị sinh viên có cái nhìn hơi khang khác, khang
khác nhưng không có nghĩa là không kính trọng.
Lớp tôi thời đó, sau nầy vài ba năm
nổi về mặt truyện ngắn truyện dài thì có Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Xuân Hoàng,
Huỳnh Phan Anh… là những người tôi biết, về mặt thi ca thì là các nhà thơ Tạ
Ký, Hữu Phương, Hải Phương, Trần Văn Nam… Những người thành danh trên đường
nghiên cứu nhận định thì có Đặng Tiến, Bửu Ý bên Dự Bị Pháp, Nguyễn Thiên Thụ,
Trần Nhựt Tân bên Dự Bị Việt. Đó là chưa kể hơn 80% sinh viên năm đó sau nầy
trở thành những nhà giáo, có người rất nổi tiếng dạy hay dạy giỏi kể không thể
hết. Điều đó cho em thấy nền giáo dục trưóc đây đã đào tạo ra rất nhiều những
con người có năng lực đích thực.
Người trẻ trước mặt lại hỏi bằng mắt
kèm theo nụ cười hóm hỉnh. Tôi làm như không biết, chuyển đề tài:
‘Tôi muốn hỏi em: Với kinh nghiệm của
người sưu tầm sách, em thấy sách của nhà văn Nguyễn Thị Hoàng có giá trị không
và tại sao?’.
‘Sách của cô ấy được giới sưu tập ưa
chuộng vì trình bày đẹp, văn vừa quá mượt mà lãng mạn vừa mang khí vị trí thức,
hai điều dường như khó tương hợp’.
Tôi trầm ngâm. Tài là ở chỗ đó. Mượt
mà đến mê hoặc. Trí thức tới đáng ngưỡng mộ. Khi tác phẩm của chị tràn ngập thị
trường, mặc dầu đã tốt nghiệp cử nhân, tôi đọc vẫn thích thú vì mình học hỏi
được nhiều điều về nội tâm bí ẩn và phức tạp của người phụ nữ. Đọc văn chị tôi
thấy tâm hồn mình mới ra. Những truyện ngắn viết nhân chuyến đi Nhật Bản của
chị có thể coi như những tùy bút tuyệt vời. Tôi thật sự bị cuốn hút trong vòng
tay ma mị đó, theo tôi Nguyễn thị Hoàng là một hiện tượng độc đáo của văn học
Miền Nam thập niên 60’.
Tôi gật đầu xác định khi thấy người
bạn trẻ thích thú về nhận định của chính mình:
‘Nhà văn không phải muốn tạo nên dấu
ấn của thời đại mà được. Dấu ấn đó được tạo thành bằng bản sắc cộng với những
suy nghĩ đi trước thời đại và được thực hiện bằng quyết tâm chắc nịch’.
Bên ngoài nhà hàng, Đường Sách càng
lúc càng vui. Nhiều người xoải chưn, dang tay chụp hình. Nhiều phụ nữ áo quần
thời thượng đang tạo dáng đứng ngồi, tạo nụ cười tươi mát huyền hoặc trước máy
ảnh. Quày sách bên kia đường hình như có chuyện xin chữ ký khi vài ba khách
bước ra tươi cười coi tới coi lui trang đầu một quyển sách cầm tay.
Tôi bỗng có ý ước ao được nói chuyện
mặt đối mặt với người học cùng thời với mình cách nay hơn nửa thế kỷ khi thấy
rằng lớp trẻ bây giờ dầu hoàn cảnh xã hội đã khác xa với sáu mươi năm trước vẫn
có cái nhìn công bằng về toàn bộ tác phẩm của chị. Móc điện thoại ra gọi con số
mà một người quen đã trao cho, tôi chờ nghe tiếng chuông reo trong hồi hộp.
Thời gian và không gian tạo sự phân cách chăng? Con số lạ sẽ làm chị e dè không
bắt máy?
Và tôi rất vui mừng khi nghe giọng
nói thân thiện của chị, cái giọng Huế pha Nha Trang dịu dàng như hồi nào dầu
tôi chưa sử dụng tới lá bùa là người bạn học cùng thời, nhưng câu chuyện về một
thời Văn Khoa xưa cũ từ mấy mươi năm trước thì cứ như mạch trào giữa hai người
bạn đã từng tắm chung một dòng sông tuổi trẻ, từng loanh quanh giữa sân trường
Đại học hồi nửa thế kỷ qua mà họ chưa bao giờ được dịp đối thoại nhau, dù chỉ
một lần.
Gác máy lâu rồi tôi vẫn còn thấy ấm
bàn tay, lại thêm một yếu tố đáng cho ta mến mộ, nhà văn nữ có chơn tài nầy qua
bao nhiêu bầm dập do bất công của đời và dư luận rỗi hơi vẫn không đánh ngã
được chị, ít ra khi nhắc đến Nguyễn Thị Hoàng trong dòng văn học thời đó, người
ta vẫn còn nhớ đến người phụ nữ mảnh mai như liễu rũ mà không yếu đuối ngã rạp
trong sóng gió cuộc đời.
Nguyễn Văn Sâm
(Sài Gòn 03, 2018)
304Đen – llttm - tvvn
No comments:
Post a Comment