NHỮNG TIẾNG NÓI THẦM
3.THẤY YÊU QUÁI
Bấy giờ vào khoảng gần canh ba. Khu miễu trơ trơ ở
giữa chốn đồng không bát ngát kia dốc ngược cái hình lù lù sẫm đen xuống mặt
nước đầm bên cạnh.
Mảnh trăng cao không bị mây ám dải cái ánh sáng rõ
ràng lạnh lẽo xuống trăm nghìn mẫu ruộng trắng xanh. Chốc chốc một làn gió
thoáng đưa như phảng phất qua lại những vong hồn không ai trông thấy.
Trong miễu thì om tối. Lác đác dưới đất mấy vùng ánh
sáng mờ đang cử động theo bóng lá chen xít nhau. Từng trận gió ào ào trên các
đầu cây nghe như những tiếng thở dài lớn. Trong bụi lối dưới chân cỏ các thứ dế
đua nhau trinh trích từng lúc rồi lại im, điểm vào những giọng giun kêu rù rì
rất dài, rất lâu, rộng rãi điều hòa như cái yên lặng.
Lúc ấy trong chùa thấy có một ngọn lửa nhỏ không cử
động, Ngọn lửa nhỏ quá, đến nỗi không đủ soi ra ngoài cái bệ phẳng lỳ. Ngọn lửa
ở đó được gần nửa trống canh. Trước khi hiện ra, cứ thấy nó từ tử ở trong chỗ
đen mù đen mịt tiến gần lại, trước nhỏ, sau to dần. Mà хеm như không có người
đem ra, hay có thì người ấy vô hình hơn đêm tối. Khi nó đứng lại, nhìn rất kỹ
thì mới biết đó là một thứ lửa đèn. Nhưng ngọn bấc lại nhô lên cháy ở giữa đĩa,
nên trông hình như cái đèn ấy không có đế và đứng lửng lơ trên không.
Không có một tiếng động nào qua. Những giọng rì rào
ở bên ngoài như bé dần, như biến đi, làm cho vùng đen tối thêm nặng nề, thêm
độc ác. Bỗng thấy rúc rích như chuột chạy ở chân tường... Ngoài hiên mấy chiếc
lá khô rơi.... một con dế trong xó sẻ rụt rè kêu. Rồi tất cả im thin thít.
Một bàn tav đen sì to tướng thò rа, năm ngón quều
quào trên ngọn đèn, ánh lửa chiếu lên làm cho lòng bàn tay mờ mờ đỏ. Một bàn
tay nữa vừa đến nằm lên trên bàn tay trước, thì bốn năm thằng quỉ hiện lên ngồi
vây lấy chung quanh cái bệ. Chúng che khuất hẳn ngọn lửa và châu đầu vào nói
chuyện với nhau. Chúng nói không ra lời, chỉ thấy lắp bắp phì thào mội lúc.
Ông Nguyễn thấy trống ngực đánh thình thịch, ông nín
hơi thở lại thì quả tim lại đập dữ hơn. Ông ta nấp ở sau một cánh cửa vẫn mở,
chỗ ấy đen tối như mực, giơ tay lên đến mặt cũng không trông thấy gì. Nhưng từ
chỗ ấy ông ta có thể xem xét được hành động của lũ "yêu quái".
Chúng nó vẫn châu đầu nói chuyện với nhau bằng hơi
gió. Hai thằng quỉ quay lưng lại, nên ông ta chỉ thấy hình hai cái đầu yên lặng
trên hai cái lưng to lớn và đen. Ba thằng ngồi ở phía bệ bên kia thì ông ta
trông thấy mặt: mặt xanh như nhuộm phẩm, miệng đỏ và cực rộng, ở dưới những đám
lông rậm xơ xác không rа hình râu. Chúng nó để tóc xõa xuống vai, nhưng có một
đứa quay mặt ra thì bịt trên đầu một thứ khăn xanh thắt ở sau gáy.
Lúc ấy hai cái tay trên ngọn đèn là tay của thằng
quỉ bịt khăn xanh đã kéo về để lên bệ. Ông Nguyễn thấy nó gật gù mấy cái rồi
đưa mắt cho mấy thằng kia trông về chỗ ông ta nấp rồi lại rì rầm nói nhỏ hồi
lâu. Đang hết sức lắng tai nghe thì bỗng thấy chúng "Hà hà!" lên mấy
tiếng. Rồi lại rì rầm bàn nhau nữa. Sau thằng quỉ bịt khăn xanh thì thào lên
một thôi một hồi những tiếng nói lớn hơn trước, nhưng nghe vẫn như tiếng người
hết hơi. Lũ quỉ liền rút năm con dao nhọn và sáng giơ lên rồi cùng đứng cả dậy.
Ông Nguyễn nghe thấy tiếng cười khàn khàn như ở trong những cổ họng bị cắt đứt:
- Hà hà!
- Hà hà! hà hà!
Ông ta hết sức cẩn thận sẽ đứng lên. Rồi vùng một
cái, chạy ra cửa, nhưng liền bị hai tay bóp lấy cổ đun ông ta lại; một thằng
quỉ nữa vẫn đứng rình ở ngoài. Bấy nhiêu đứa liền nắm lấy ông ta khiêng để lên
bệ. Ngọn đèn lúc ấy đẫ khêu lớn, một thằng đang cầm ở tay giơ lên. Ông Nguyễn
dẫy dụa thế nào cũng không ra, ông kêu không thành tiếng nữa. Ông bị những bàn
tay như sắt ghì chân tay ông xuống, người ông nằm ngửa, cứng như xác chết; ông
nhắm nghiền mắt lại sẵn sàng da thịt đợi cho lũ quỉ xé ra tan tành. Bỗng thấy
một thằng nói lên, nói tuy sẽ, nhưng lần này thực là tiếng người:
- Mở... mắt... ra!... Mở... mắt...!
Ông Nguyễn vô tình vâng lời, mở mắt ra thì thằng bịt
khăn xanh cúi xuống gần mặt ông ta mà thở, ông ta ngơ ngác liếc quanh liếc quẩn
rồi lại nhìn rõ vào mặt nó. Nó liền rách mồm ra cười một cách ghê gớm mà nói:
- Ai bảo mày... cả gan... vào đây?
Nguyễn công điên tiết quát lên:
- Chúng bay tụ nhau ở đây chỉ có việc giết người ăn
thịt thôi phải không?
Một đứa rền rĩ trả lời:
- Chính phải, rồi... chính... phải!...
- Thế thì chúng bay ăn thịt tao đi!
- Hãy yên... mày... chưa được chết vội!
Ông Nguyễn hét rất lớn:
- Thì giết ông đi! Giết đi! Giết đi!!!
Thằng quỉ đội khăn xanh trợn mắt nhìn như đâm vào
mặt ông ta. Nó nói:
- Không nói to... Đợi đó!
Rồi ồng bị nó chẹn lấy cổ, chân tay không nhúc nhắc
được; người rủn cả ra. Lũ yêu quái lại thì thào với nhau một hồi. Ông ta biết
rằng nó bảo nhau sắp giết mình, nên lừa lúc bất ngờ, vùng lên cùng với một
tiếng thét dữ dội. Chúng nó ồn ào xúm nhau lại giữ. Ông ta thấy mấy nhát dao
đâm hụt vào lưng với bên gáy, bèn nắm tay đánh tung ra tứ phía. Bỗng ngọn đèn
tắt hẳn, rồi thấy ánh lửa sáng rực hiện lên. Trên bốn mặt tường, những bóng đen
cực lớn chạy rất nhanh giữa những tiếng kêu gọi xôn xao, nhìn ra thì lũ quỉ đã
bị mấy người trói dật cánh khuỷu. Ngoài cửa chùa lại thấy gần một chục người,
tay gươm tay đuốc xông vào.
- Các người là lính của Đào huyện quan sai đến phải
không?
Lính thưa:
- Bẩm cả Đào đại nhân cũng đến.
- Thế đâu?
- Bẩm ngài, quan cùng mấy người xông vào trong kia
bắt nốt.
Nói dứt lời thì huyện quan và hai tên lính dẫn thằng
quỉ đội khăn xanh ra. Quan huyện Đào cười và nói với Nguyễn công:
- Bây giờ tiểu đệ mới biết rõ mặt các vong hồn!
Nguyễn công sửa lại đầu tóc, quần áo xong, đáp:
- Nếu không có ngài đến cứu thì tiểu đệ cũng bị
giống yêu quái này giết chết, tiểu đệ xin nhớ ơn mãi mãi.
- Ngô huynh dạy quá. Đó là chức trách của tiểu đệ,
ngài bất tất phải nói đến việc hàm ơn.
Huyện quan lại ngảnh trông lũ quỉ:
- Các "vong hồn" oan uổng đói khát quá,
nay ta đem về huyện cho nơi ăn chốn ở hẳn hoi. Quân bay! "rửa mặt"
cho chúng!
Tức thì bằng ấy thằng quỉ bị vặt hết râu và chùi
sạch phấn nhọ bôi trên mặt. Nguyễn công trông vào thằng chúa quỉ đội khăn xanh,
kêu lên một câu kinh ngạc:
- Đàm tiên sinh!
Huyện quan gật đầu, cười mà nói:
- Phải. Đàm tiên sinh, hay là Ba Đen (vì trong bọn
vẫn gọi bằng cái tên hiệu ấy). Bọn này Ba Đen đứng đầu, được bộ hạ vâng phục
lắm, vì y táo tợn giảo quyệt biết chừng nào... Chúng nó có mười bốn thằng tất
cả, nhưng đây mới là những tên ghê gớm nhất. Cả bọn thì một nửa là quân cường
bạo hợp lại, còn một nửa là tuần đinh ở roấv làng gần đây. Cái ý kiến giết sư
cướp chùa làm sào huyệt, rồi bầy rа những câu chuyện yêu quái như thế là chính
Ba Đen nghĩ ra. Thực y đã khéo lấy những điều huyền hoặc sợ hãi để che kín
những việc hành động của mình. Sào huyệt của chúng ở đây, nhưng chỗ chúng đến
ăn cướp lại ở xa lắm. Bởi thế sau những án giết người lấy của, dò xét thế nào
cũng không ra. Ai có ngờ đâu rằng bọn cướp kia chính là lũ yêu quái này - lũ
yêu quái giả mạo!
Nguyễn công đứng lặng thinh ở giữa đám người cầm
đuốc. Việc xảy ra là một việc kỳ quái hết sức, đến nổi ông ta không biết có nên
tin những điều mắt thấy tai nghe vừa rồi không! Đàm Văn Cương lại là tướng cướp
ư? Lại là người chực giết cả ông ta ư? Lòng người đến như thế thì mắt nào soi
suốt được?
Ông huyện quan lại tiếp:
- Đàm tiên sinh (hay là Ba Đen) khôn ngoan đến như
thế, song vẫn có điều sơ xuất: Ba Đen cứ tưởng rằng trong bọn ai cũng kinh sợ
hắn, lại tin rằng thủ hạ hắn đã uống máu ăn thề rồi thì không đứa nào dám làm
phản nữa. Nhưng Đàm tiên sinh lầm. Cái lòng tham lam chỉ muốn vơ của cho đầy,
muốn cướp hết cả phần của thủ hạ mình với cái lòng độc ác chỉ thèm giết cho
nhiều mạng kia, đã khiến cho một con yêu giả trong chùa này рhải căm hờn, phải
hối hận. Con yêu ấy tên là Trần Văn Thình (cả bọn cướp đều sửng sốt). Phải,
Trần Văn Thình, tuần tráng ở làng trên. Chiều hôm nay, chính sau lúс ngô huynh
ra khỏi huyện đường ít lâu, bản chức đang ngồi ngẫm nghĩ về câu chuyện ngô
huynh ẩn mưa trong chùa Đầm thì thấy lính dẫn tên tuần tráng ấy đến. Nó quì
xuống thú hết các tội, rồi tố cáo các việc sát hại của bọn chúng với các việc
"hiển hiện" ở chùa Đầm. Bản chức hỏi cặn kẽ tên Thình, xong lại nói
cho nó biết ngô huynh vào khám phá ở đấy. Nó vội thưa với bản chức rằng nếu
ngay đêm nay không bắt được bọn cướp này thì thế nào ngô huynh cũng bị hại.
Bản chức đem lính đến nơi cho vây kín bốn mặt thì
vừa lúc nghe tiếng ngô huynh thét. Lúc xông vào bắt thì Đàm tiên sinh là người
trốn trước nhất, không muốn cho bản chức được cái hạnh ngộ tiếp kiến ngài...
Nhưng lính của bản chức đã bít hết các lối, mà bản chức lại biết hết các ngách
hiểm hóc ở sau chùa rồi, nên Đàm tiên sinh không thoát đâu được.
Nói đoạn ông truyền cho lính trói cả năm tên cướp
lại làm một bọn và quay lại mời Nguyễn công cùng về huyện đường. Nguyễn công
vừa buồn vừa giận. Ông thở dài mà theo qnan huyện, miệng mỉm cười một cách chua
chát mỉa mai: "Ồ! Có ai ngờ! Có ai ngờ đâu rằng cái khoảng mười năm xa
cách đã thay lòng người cố hữu đến như thế!... Mà cũng là người có học, biết
rộng! Có học để thêm quỷ quyệt, để bày ra mưu sâu chước hiểm, để khéo rào khéo
chống; đối với những việc ghê gớm dị kỳ mà chính mình bày ra, chính mình gây
nên, y khéo làm như người ngoài cuộc, để che mắt trần gian. Cái lòng nham hiểm
với cái trí quỉ quyệt kia nếu không vì một sự tình cờ có người khám được ra thì
không biết sẽ ra biết bao nhiêu tội ác nữa".
Đàm Văn Cương lúc ấy đứng ngoài hiên chùa bị trói
dật cánh khuỷu cùng với bọn đồng đảng, búi tóc buột rũ xuống hai bên vai. Lúc
Nguyễn công bước qua trước mặt y, thì y vẫn ưỡn ngực một cách ngạo nghễ, không
tỏ ra vẻ gì là lo sợ, hối hận. Nhưng khi đôi mắt nghiêm khắc của Nguyễn công
trừng lên nhìn thẳng vào y thì họ Đàm hơi biến sắc, se sẻ cúi đầu xuống và mắt
liếc ngang.
Nguyễn công toan đem bao nhiêu lời căm giận mà mắng
cho giống sài lang kia một hồi. Song ông chỉ mím môi mà đứng lại giây lát trông
y một cách rất khinh bỉ, rồi vừa thở dài vừa bước ra.
Thế Lữ
No comments:
Post a Comment