TƯƠNG CHI
Tôi
ở Sầm Sơn đã hăm tám năm, ngay từ thời tôi tậu cái nhà nghỉ mát này. Năm ấy tôi
vừa bốn mươi và đương làm ký lục tòa án tây ở Hà Nội. Một hôm đi chơi xa về tôi
húng hắng ho. Cũng tưởng cảm qua loa, rồi khỏi. Nào ngờ bệnh cứ liên miên kéo dài
mãi. Nghe lời anh em, tôi đi xem đốc tờ. Thì ra, ông ạ, hai lá phổi của tôi đã
lỗ chỗ bắt đầu có chấm đen. ấy là đốc tờ nói thế thì tôi cũng biết thế. Nhưng
dẫu sao tôi cũng sợ hãi, kinh hoảng, cuống cuồng. Tôi lo tôi chết, nhất đốc tờ
lại khuyên tôi nên nghỉ hẳn công việc về tĩnh dưỡng ở một nơi thôn quê hẻo lánh
quang đãng. Tôi tin chắc rằng ông đốc tờ không nỡ bảo thẳng cho tôi biết rõ cái
bệnh trầm trọng của tôi, và tôi hiểu ý nghĩa sâu xa của câu nói kín đáo.
Thế
là tôi xin thôi việc. Nhà tôi giàu có. Tôi chỉ làm việc cho đỡ buồn, sau hai
lần thi trượt vào trường Sĩ Hoạn. Cha mẹ tôi lại đã mất cả. Tôi hoàn toàn tự
chủ đời tôi. Vả lúc bấy giờ, mình còn mong gì, đời mình còn dài mấy, mà bảo
mình chí thú làm ăn tính toán kia khác. Vì thế, ngay vụ hè năm thôi việc, tôi
vào đây nghỉ mát, thuê cái nhà này rồi mua hẳn. Tiêu tiền, tôi chỉ nghĩ có một
việc tiêu tiền, tiêu cho sướng tay rồi chết. Các con tôi thì tôi đã dành cho
mỗi đứa một vài cái nhà hoặc ở Hà Nội, hoặc ở Hải Phòng rồi.
Nhưng
đấy ông coi, hăm tám năm qua, nào tôi đã chết đâu? Mà lạ quá ông ạ, tôi vẫn
húng hắng ho như ngày mới mắc bệnh, có lẽ tôi cứ húng hắng ho mà cứ khỏe mạnh
như thế này cho tới ngày xuống lỗ.
Nay
tôi quen đi rồi chứ mấy năm đầu thì khổ lắm. Lăm le chờ chết đến... Thà nó đến ngay
cho, cũng xong. Nhưng sang năm thứ tư, tôi hầu quên hẳn bệnh ho của tôi. Rồi
cho qua những ngày nóng nằm nghỉ trong này - vì thế hè tôi đã trở về Hà Nội -
tôi đánh tổ tôm, đánh cờ, - nhất là đánh cờ. Tôi thích cờ lắm, ham mê nữa.
Trong mười năm gần đây tôi rất chịu khó xem các sách trận, thế và luyện tập với
các tay cao cờ ở Hà Nội, Hải Phòng, nên nay đánh cũng có nhiều nước khá, nhiều
nước hay. ở đây, họ đồn đại tiếng cao cờ của tôi nhiều lắm và cho là tôi vô
địch, nên động có tay yêu cờ vào nghỉ mát, như ông chẳng hạn, là phải tìm đến
thăm tôi. Những ông ở các nơi thì tôi chả dám nói, chứ người ở vùng này ít ai
hạ nổi tôi, trừ khi tôi cố ý thua thết khách một, hai ván. Họ tâng bốc mình là
vô địch, thực cũng không ngoa lắm, vô địch đối với họ.
Tôi
yên trí thế mãi. Nhưng một lần binh... binh gì người hạt Nông Cống tôi quên mất
tên, hòa với tôi một ván rồi hạ luôn tôi ván sau. Hôm ấy tôi vừa ăn cơm sáng
xong. Một người lính khố đỏ ngồi ăn quà ở hàng nước trước cửa nhà tôi. Người ấy
nói nghe đồn tôi cao cờ muốn xin hầu một ván. Thằng người nhà tôi vào thuật lại
với tôi. Tôi liền cho ra mời người ấy. Hắn cao thực ông ạ. Ván trước tôi chật
vật mới giữ được hòa, mà ván ấy kéo dài từ mười một giờ cho tới năm giờ chiều.
Đánh xong ván sau thì tối mịt. Ván ấy tôi thua.
Nhưng
thua thì thua, tôi vẫn không phục, nhất là không mãn nguyện được thua một tay
địch thủ, vì người lính cao thì có cao, nước cờ vẫn chỉ là nước cờ nhà nghề,
không phải nước cờ phong lưu tài tử? Đánh với hắn ta, tôi tưởng tượng như đánh
với một anh nhà quê xòe cái quạt hới che đầu trước một cửa đình vào đám. Những
nước cờ chắc chắn, vững chãi, giữ gìn, không bao giờ lầm lẫn, nhưng tầm thường
như nước "kiệu một" của con ngựa nết na chạy thẳng một mạch tới đích.
Kể thì là con ngựa đã khá lắm rồi, vì nhiều người đánh cờ như lừa hay bò chạy,
chán ngắt!
Tôi
thuật dài dòng quá, phải không? Tôi hứa với ông một câu chuyện kỳ thú mà chưa
có một tý gì gọi là thú cả. Xin lỗi ông, nhưng tôi phải kể có ngành, có ngọn
thế thì ông mới hiểu gặp cụ tú tôi sung sướng biết chừng nào.
Tôi
vẫn chưa hỏi thăm được tính danh quê quán của cụ tú. Tôi chỉ biết cụ là một cụ
tú, thế thôi.
Một
hôm - cách đây bốn năm - vào khoảng mười một giờ sáng, lúc tôi sắp sửa ăn cơm,
người nhà tôi nói ở cổng có người tự xưng là một ông tú tài ở vùng này đến
chơi. Tôi cho mời vào. Cụ tú là một ông già ngoài bảy mươi tuổi, y phục rất cổ,
đầu đội mũ ni nhiễu, mình mặc áo thâm rộng, tay chống cây gậy trúc. Có lẽ cụ
thích lối y phục ấy chứ sự thực, cụ tuy râu tóc bạc phơ mà người còn khỏe mạnh,
chưa điếc, chưa lòa, chưa gù, cái gậy cụ cầm là một vật trang sức hơn là một
vật cần dùng.
Tôi
hỏi: "Thưa cụ, tôi chưa được biết tiếng cụ, chẳng hay cụ có điều gì đến
chỉ giáo cho?". Cụ cười to, đáp: "Tôi ở cách đây xa lắm. Sáng sớm hôm
nay, vào khoảng năm giờ, tôi bắt đầu ra đi, thế mà bây giờ tôi mới tới đây. Tôi
không quản đường xá xa xôi, hiểm trở, vì phải leo một trái núi, để đến xin hầu
cụ một ván cờ".
Tôi
kinh ngạc, cảm động nữa: xưa nay tôi mới thấy một ông già lạ lùng này, chống
gậy đi bộ nửa ngày trời để đánh một ván cờ. Tôi nói với cụ tú: "Thưa cụ,
cờ tôi chưa có gì mà được cụ quá trọng vọng như thế này, thực tôi lấy làm tự
thẹn". Cụ tú cười sang sảng đáp lại: "Thưa cụ, chỉ vì tôi nghe đồn cụ
là một kỳ thủ vô địch ở vùng này nên tôi mới trèo non vượt suối qua đây, xin cụ
đừng quá nhún và cho tôi được hầu một ván".
Tôi
mời khách xơi cơm. Khách chối từ nói trước khi ra đi đã ăn lót dạ và giữa đường
đã dùng cơm nắm chấm muối vừng. Ông thấy chưa? Đem cơm nắm muối vừng ra đi chỉ
vì nghe đồn có một tay cao cờ ở một nơi kia. Mà tôi chắc trong chiếc khăn gói
nhỏ khoác vai, thế nào cụ tú cũng còn đủ lương thực để dùng trên con đường về.
Sau
nể lời mời mọc khẩn khoản, cụ cũng nhận uống với tôi một chén rượu.
Rồi
chúng tôi đánh cờ. Cờ cụ tú cũng khá, đại khái như cờ tôi, có kém thì cũng chỉ
kém độ một tốt. Chúng tôi chơi ba ván, ván đầu tôi được, ván thứ hai cụ tú
được, ván thứ ba tôi cố ý tính hòa tuy cờ tôi có phần thắng thế.
Lúc
cụ tú ra về, trời đã xế chiều. Tôi hết sức giữ cụ nghỉ lại đây một đêm, nhưng
cụ nhất định cáo từ, nói nhân có trăng về ngay cho được mát.
Tôi
âm thầm nhớ ông bạn mới, buồn rầu tưởng tới lời hứa sẽ lại đến chơi. Sẽ lại đến
chơi? Tôi tin sao được. Ngoài bảy mươi tuổi đi nửa ngày trời để đánh ván cờ.
Một lần còn có thể được, chứ mãi mãi thì có tài thánh.
Tôi
bỗng hối hận rằng sao không cả quyết giữ mà lại để cụ tú về. Tôi nghĩ thầm:
"Đường qua núi, qua đèo, dù có trăng cũng khó nhọc cho một ông cụ già. Nói
gì khó nhọc, nhỡ cụ sảy chân ngã xuống khe, xuống suối thì sao?" Đêm hôm
ấy tôi băn khoăn không nhắm mắt.
Và
tôi luôn luôn thấp thỏm lo lắng cho tới mười hôm sau, vào hồi mười giờ sáng, cụ
tú lại chống gậy đến. Cụ mở khăn gói lấy ra cho tôi một chai rượu ngâm thuốc mà
nói rằng: "Rượu ngang vùng tôi ngon lắm, tôi đem biếu cụ một chai. Tôi bỏ
vào mấy miếng truật cho đoan nó khỏi bắt".
Tôi
bảo người nhà sắp thức nhắm, rồi bày bàn cờ ra đánh. Đi được dăm nước, tôi nhận
thấy ngay rằng cụ tú đã về nhà mở trận ra luyện để phá nước pháo thăng hà của
tôi. Tôi tự nhủ: "Không ngờ ông già bảy mươi này lại có chí phấn đấu và
tính hiếu thắng đến thế". Và điều này nữa, chẳng rõ ông có để ý không, chứ
tôi thì tôi nhìn không sai, là người làm sao nước cờ hiện ra làm vậy. Người bủn
xỉn, bẩn thỉu, nhỏ nhen thì nước cờ giữ gìn, bo siết từng tí: đó là nước cờ của
các bác nhà nghề đi giựt giải ở các đám hè, đám hội. Những người rộng rãi,
phóng túng, liều lĩnh, anh hùng, nước cờ cũng rộng rãi phóng túng, liều lĩnh,
anh hùng. Những người ác, nước cờ không thể hiền lành được. Những người nhã
nhặn có lễ độ, nước cờ không bao giờ lấc cấc, du côn. Những người quân tử không
thèm đánh trộm, những kẻ tiểu nhân lừa lọc từng miếng. Nước cờ cụ tú tỏ ra rằng
cụ là một ông tướng can đảm sáng suốt, có mưu trí lúc lâm nguy hay lúc khởi thế
công. Nhưng thế thủ của cụ hơi chểnh mảng một chút. Tôi chưa rõ cụ ở vào hạng
người nào trong xã hội, nhưng tôi đoán cụ có óc cách mạng. Mãi sau, trong câu
chuyện thân mật tôi mới biết trước cụ có dính dáng vào việc văn thân và đã bị
đày mấy năm ra Côn Đảo.
Lần
thứ hai ấy chúng tôi chỉ đánh có một ván. Cụ tú đòi về ngay cho được sớm sủa,
vì hôm ấy không có trăng.
Từ đó
cứ mươi mười lăm hôm cụ tú lại đến chơi đánh cờ, cho tới hết hè tôi ra Hà Nội.
Rồi
vụ hè năm sau cuộc chơi cờ lý thú của chúng tôi lại nối.
Một
hôm tôi tiễn cụ tú một quãng dài khỏi làng Trường Lệ. Chúng tôi noi theo đường
núi tới chỗ rẽ xuống xóm Sơn mới ra bãi biển theo ven làng Trường Lệ. Khi đứng
trên ngọn núi cao, tôi trỏ một làng xa xa mờ mịt dưới mấy khóm phi lao và hỏi:
"Cụ ở vùng kia, phải không?"
Cụ
lắc đầu đáp: "Không, xa hơn đấy nhiều". Rồi cụ đứng rướn thẳng người
lên, nhắm gậy trúc về một phương, nói tiếp: "Tận nơi kia, sau hòn núi đá
xanh xanh và như hình một bức bình phong đó".
Tôi
ngắm cụ tú, tôi ngắm diện mạo dáng bộ cụ, tôi ngắm cảnh biển chung quanh và tôi
mơ màng như sống lùi lại hàng nghìn năm, vào thời người và tiên thường gặp nhau
trên núi cao, trên biển cả; cụ tú với cái mũ ni nhiễu tam giang, với cây gậy
trúc màu vàng ngà đã hiện ra trước mắt tôi thành một nhà đạo sĩ đi tìm thuốc
trường thọ. Dưới kia, trên mặt nước phẳng lặng, khúc nhạc chất phác nghìn xưa
của bọn dân chài cũng đang diễn lại: Tiếng gõ mạn thuyền theo liền với những
tiếng kêu mọi rợ "Ơ! ới... ơi!" kéo dài mãi một điệu. Họ dọa nạt cá
đấy. Hẳn ông cha ta về thời Trần, thời Lý, thời Đinh cũng dọa nạt quân địch như
thế. Và đoàn thuyền đánh cá kia so với thuyền trận của các cụ ta nào có khác
nhau mấy tí?
Qua
làng Trường Lệ, cụ tú nhất định mời tôi trở về cho kỳ được mới nghe. Rồi cụ rẽ
lên đường đi biệt vào trong rừng phi lao.
Thế
là tôi chỉ biết cụ ở vào phía sau dẫy núi bình phong mơ hồ, như một ông tiên
trong một nơi động khuất nẻo.
Năm
ngoái, chờ mong mãi không thấy cụ tú ra đánh cờ, tôi nhớ quá. Nhớ mà chả hiểu
làm thế nào để dò thăm tin tức. Hỏi người vùng này thì họ chẳng rõ cụ tú già ấy
là ai và ở đâu.
Đã có
lần cùng một người nhà, tôi mò mẫm về tận vùng trái núi bình phong, nhưng cũng
chịu không tìm được di tích cụ tú kỳ dị.
Đến
năm nay, đã gần hết hè rồi mà vẫn chưa thấy cụ tú ra, thì tôi đoán chắc rằng cụ
đã quy tiên.
*
* *
Kể
dứt câu chuyện, cụ ký uể oải bày quân ra bàn cờ để cùng tôi đánh giải khuây một
ván.
Khái Hưng
Rút từ tập truyện Hạnh
Nxb Đời nay, Hà Nội, 1938.
No comments:
Post a Comment