MỘT MẢNG ĐỜI THƠ ẤU
1/
Tình cờ mở quyển album xem lại những tấm ảnh chụp từ ngày còn bé, khiến
hồn tôi vơ vẩn quay về những ngày xa xăm cũ. Bao kỷ niệm nằm ngủ im trong vùng
ký ức bỗng choàng tỉnh dậy, rõ từng nét. Cảm xúc lẫn lộn giữa niềm vui và tiếc
nuối, ước chi được sống lại thời thơ dại ấy.
Tôi nhìn thấy tôi là một bé con khoảng 8 tuổi, tóc uốn quăn. Hễ tan
trường về nhà, ăn cơm xong là bỏ dép chạy chân đất vòng vòng quanh sân trước
sân sau, hai bên chái hè, cả nhà bà dì em bà ngoại ở kế cận để khi thì leo tót
lên ngọn cây me, cây lý, ổi, xoài… tìm hái trái hoặc chỉ ngồi chơi như con khỉ
ở chặng ba của cây ngó nhìn thiên hạ thỉnh thoảng đi ngang nhà, thấy mình giỏi
giang cao lớn hẳn.
Tôi nhìn thấy tôi cầm nhánh cây rình đuổi bắt bươm bướm đủ sắc màu bay
vờn quanh mấy bụi bông trang, bông mai, bông móng tay… tìm hút mật bông nhành
nhành, bông huệ trắng… Vừa lẩm nhẩm hát:
Kìa
con bướm vàng
Kìa
con bướm vàng
Xoè
đôi cánh, xoè đôi cánh
Bươm
bướm bay đôi ba vòng
Bươm
bướm bay đôi ba vòng
Bên
hàng hoa, Bên hàng hoa
Thỉnh thoảng đánh trúng bươm bướm rơi xuống đất, tôi bắt đem ép vào
quyển vở, cho giống mấy thiếu nữ mơ mộng mà chị tôi hay kể giữa bạn bè với nhau
mà tôi nghe lén được.
Ép được chục con, mấy ngày sau mở ra xem thấy thân hình nó giẹp lép, lòi
ruột ghê gớm, phấn ở cánh lem luốc, xác xơ. Nghĩ mình sao ác độc chắc sau chết
sẽ bị đày xuống âm ty nên từ đó không còn dám nghĩ chuyện ép bướm vào vở nữa.
Nhưng cái trò đuổi bươm bướm chạy quanh sân thì vẫn còn thêm vài năm nữa mới
ngưng.
Tôi nhìn thấy tôi lặng ngắm mấy bông mười giờ buổi sáng hãy còn nở rực
màu đỏ sen tròn cánh, chưa qua buổi trưa đã co cụm héo rũ. Bần thần xót thương
sao đời hoa ngắn ngủi mau tàn.
Tôi nhìn thấy tôi sau bữa cơm chiều, má hay dẫn mấy chị em băng qua con
lộ trước nhà đến cánh đồng cỏ cho chúng tôi tha hồ chạy nhảy chơi đùa và hít
thở không khí thiên nhiên tinh khiết. Chúng tôi tìm nhặt cỏ gà, là loại cỏ dại
giống hình đầu gà, đặt cho hai đầu cỏ đan nhau rồi giật mạnh xem ai giật đứt
đầu cỏ của đứa kia thì thắng.
Chúng tôi cắc cớ lùa tay vào từng nhánh cây mắc cỡ mà nhạc sĩ Trần Thiện
Thanh gọi là hoa trinh nữ để nhìn chúng e thẹn xếp lá và hoa lẩn trốn.
Hồi nhỏ tôi vốn có những bản chất đối nghịch nhau: Mặc dù rất nhút nhát
ít nói, sợ người lạ, nhưng tôi lại khá năng động, nghịch ngợm không thua ai,
thích chơi đủ các trò chơi ngoài trời như nhảy dây, nhảy cò cò, trốn tìm, chơi
bán hàng, nuôi cá lia thia, đá cầu bằng lá gòn cột chùm lại, tắm sông, bắn bi,
chơi cờ nhào, domino… nhất là đi phá phách mấy cây cối, hoa cỏ, là hung thần
của đàn bướm…
Có lần chạy xe đạp đầm nhỏ ba má mua cho mấy chị em, tôi vừa chạy vừa tỏ
ra ta đây giỏi cứ ngoái lại đằng sau (chả biết nhìn gì nữa), nên tông cái rầm
vào đầu chiếc xe Lambretta dùng để chở khách đang đậu ngoài đường của bác Hai
hàng xóm. Té nhào! Anh trai con bác lớn hơn tôi vài ba tuổi, đang chơi ngoài
sân với vài người bạn, nhìn thấy bèn hù:
-Chết rồi, con Thanh Hà đụng vô xe nhà tao bị móp rồi, tao méc cô dượng
(tức là ba má tôi) bắt đền cho mầy chết.
Thời đó, bất luận con trai nói với con gái hễ ai nhỏ hơn là cứ mầy tao
mà kêu.
Thật là đồ… bất lịch sự, đồ… hổng biết galant gì cả.
Hăm bị méc, tôi sợ hết hồn vía. Chẳng nói chẳng rằng leo lên xe phóng
nhanh về nhà, cũng chỉ cách có ba căn thôi. Cứ hồi hộp chờ “nó” lại mắng vốn, nhưng
mà anh ta chỉ chọc chơi thôi chớ không có méc, báo hại mấy ngày tôi ăn ngủ
chẳng yên.
2/
Phía trước nhà tôi là con đường liên tỉnh nối liền Rạch Giá-Sài
Gòn, phía sau là dòng sông phù sa hiền hoà, là nguồn nước cung cấp cho các gia
đình dọc hai bên bờ sông chạy dài… không biết đến đâu nữa (!). Chắc là đến tận
Sài Gòn. Hồi nhỏ tôi chỉ biết đến Sài Gòn thôi. Còn Huế thì quá xa xôi, nói gì
đến Hà Nội thì cứ mơ hồ như ở một vùng đất nào lạ lẫm sẽ không bao giờ đặt chân
tới được.
Miền Nam chỉ có hai mùa mưa nắng. Mùa mưa đến, mọi người hứng nước
mưa để uống, nấu thức ăn, tắm rửa giặt giũ. Thời ấy môi trường không bị ô nhiễm
bởi mọi thứ độc hại: Khói xăng dầu, bụi bặm, hoá chất. Con người cũng không
sống chen chúc chật chội tranh giành diện tích với thiên nhiên, cây cối nên
không khí rất trong lành dễ chịu. Nước mưa tinh khiết, nhà ở quê nào cũng sắm
rất nhiều lu thật to để hứng dùng trong sinh hoạt, ăn uống.
Lu làm bằng sành nên giữ hơi mát. Giữa trưa trời nắng nóng, ai đi đâu từ
ngoài trở về, chỉ cần một ca nước mưa giải khát, nước từ cổ chạy dần xuống
cuống họng, vào tới đâu là cảm thấy mát lạnh ngọt lịm đến đấy…
Từ ngã ba chợ về đến nhà tôi độ chừng 800m, phải đi ngang qua khoảng
chục nóc gia người gốc Campuchia. Họ rất hiền lành hoà thuận đúng câu tình làng nghĩa xóm với dân bản xứ.
Trong số đó, tôi có chị bạn tên Thị Kim Lên – tên nhà là Chuột – học
chung thời tiểu học, tuy cùng lớp nhưng chị lớn hơn tôi ít nhất bốn tuổi. Ba
chị làm cảnh sát cho chị đi học để biết chữ. Nhà chị ở tận trong làng sóc xa xôi
nên chị ra trọ nhà người bà con xóm tôi để tiện việc đến trường. Lúc ấy tôi còn
quá nhỏ nên vô tư không hỏi địa danh quê chị, mà nếu có hỏi tôi cũng chẳng biết
nó nằm nơi mô.
Chị rất thương tôi, luôn bênh vực khi có bạn khác ăn hiếp. Mỗi ngày đi
học, tôi thường ghé qua rủ chị đi cùng. Nhưng tựu trường năm lớp Nhứt (tức là
lớp Năm) thì không thấy chị đi học nữa khiến tôi lẻ loi, buồn nhớ chị nhiều.
Bẵng đi chừng hơn một năm, một hôm chị ghé thăm tôi, có dẫn theo hai đứa
em gái nhân dịp ra phố thăm bà con. Dưới con mắt của một đứa bé là tôi, trông
chị ra vẻ thiếu nữ hẳn lên rồi. Tóc chị dài thêm, cột đuôi ngựa, cao hơn tôi cả
nửa cái đầu, nhất là ở chỗ ngực đã u lên hai cục bự bằng trái quít khiến tôi cứ
tò mò nhìn lén. Nghĩ thầm: Trời, sao chị nầy mới hơn một năm không gặp mà giờ
đã đổi khác quá nhanh vậy, đâu còn chút gì là chị Chuột gần gũi ngày xưa của
mình nữa.
Chị giải thích là ba chị nói học biết chữ nhiêu đủ rồi, là chị cả nên
phải ở nhà để lo giúp nội trợ gia đình. Sau lần đó đến giờ đã nửa thế kỷ trôi
qua, tôi không bao giờ gặp lại chị lần nào. Chị Kim Lên ơi, giờ chị ở phương
trời nao? Chắc đã cháu đàn cháu đống rồi. Sao chị không đến tìm em, vì chị biết
nơi gia đình em ở mà.
Tôi có đọc đâu đó, câu người Việt hải ngoại hay nói: Chúng ta ra đi mang theo quê hương cho nên hầu như
nhà nào cũng đều trồng trọt rau, cây ăn trái tiêu biểu cho món ăn thuần Việt để
đỡ nhớ cố quốc. Thì người Cam-Bốt cũng vậy, nơi nào họ sinh sống là có trồng
cây thốt nốt, cây me keo, cây ô môi…
Nên hiển nhiên có một cây thốt nốt được trồng bên vệ đường ở khu người
Khmer cư ngụ, không biết từ khi nào mà thân cây đã khá lớn phải hai vòng tay
con nít mới ôm trọn, tàng lá xanh phủ rợp bóng mát. Đối diện với cây thốt nốt,
bên kia đường là nhà của ông chú Bảy Kinh– ông tên Kinh, nhưng là người Khmer.
Là một căn mái lợp lá dừa nước, như hầu hết các ngôi nhà thuở ấy, nằm hơi lùi
vào trong, chung quanh trồng nhiều cây che khuất tầm nhìn từ ngoài. Ông nói
tiếng Việt không rành, sống kín đáo, tiết kiệm có tiếng.
Tôi hơi nhiều chuyện chút, người trong xóm kể lại rằng: Sau năm 1975,
đợt đổi tiền đầu tiên thì mới phát giác ông Bảy rất giàu chứ không như vẻ ngoài
đạm bạc. Tiền giấu trong lu hũ, chỗ nầy chỗ kia. Mỗi người chỉ được quyền đổi
một ít có giới hạn (không nhớ bao nhiêu, chắc vài chục hay vài trăm chi đó),
nên tiền ông dành dụm bỗng biến thành giấy vụn. Ông khóc không thành tiếng,
nhưng nhất định thà đem đốt mớ tiền hết giá trị kia chứ không chia cho hàng xóm
để đổi phụ vì tiếc của do ông chắt mót. Nếu ông không được hưởng thì cũng đừng
hòng ai khác được hưởng.
Hồi ấy xóm tôi vắng hoe, lâu lâu mới có người đi trên đường. Bọn trẻ bắt
đầu lớp một cũng cuốc bộ đến trường chứ đâu có cảnh phụ huynh đưa đón như ngày
nay.
Mỗi khi chúng tôi đi về ngang cây thốt nốt, cũng là ngang nhà ông chú Bảy
Kinh, bất kể sáng trưa chiều, luôn cảm thấy bất an vì cây cối khá rậm rạp âm u,
sợ có… ma rình. Rón rén cố đi cho thật mau vượt qua đoạn đường ấy rồi mới vững
tâm được. Nhất là khi trời mưa, chiều chạng vạng đi học về, tóc cứ dựng đứng,
tưởng tượng nhỡ con ma núp trên tàng cây nhảy xuống hù nhát.
Đã vậy trong cộng đồng hiền lành ấy có một ông thích uống rượu, say sưa
cả ngày tên Tư Buôl. Khi say ông thường đi từ đầu làng đến cuối làng, mặc độc
cái quần cộc ngả màu cháo lòng, chân nam đá chân chiêu, tay cầm chai rượu quơ
quơ, miệng nói năng nhừa nhựa khiến bọn con nít sợ mất hồn vía, chạy núp vào
kẹt cửa hay sau bồ lúa để trốn.
Nên ông bà cha mẹ thường doạ nếu đứa nào hư sẽ đem lại cho ông Tư Buôl
bắt nhậu rượu. Ông ấy là nỗi kinh hoàng của đám trẻ chúng tôi. Mỗi lần đi học
về mà lỡ thấy ông từ xa, là tôi mặt mày xanh lét chạy ngược lại ngã ba nơi có
đông người, chờ cho ông đi khuất mới dám về nhà.
Về sau, tôi không nhớ ông mất năm nào, chỉ nghe nói là bịnh gan. Gia
đình ông chú Bảy Kinh không biết dời đi đâu. Cây thốt nốt cũng cho đi hoá kiếp
từ lâu rồi.
3/
Thuở ấy, cuộc sống xóm tôi rất lặng lẽ thanh bình. Lưu thông trên sông
đa số là những chiếc xuồng ba lá chở trái cây rau cải bán dọc bờ. Hoặc của
người chài giăng lưới bắt vài con cá nho nhỏ lòng tong, cá chốt, cá lìm kìm, cá
bóng kèo, cá he, cá linh… cũng đủ một bữa ăn gia đình. Thỉnh thoảng mới có vài
chiếc “vỏ dọt” chạy bằng động cơ hai thì nổ ròn tan lướt nhanh qua làm xáo động
chút không gian tĩnh mịch, rồi từ từ xa dần trả lại sự yên ả cho vùng quê Rạch
Sỏi.
Mỗi năm có thời kỳ mùa nước nổi -còn gọi là mùa lũ sông Cửu Long- từ
tháng Tám đến tháng Mười Một Dương lịch, nước tràn vào sân sau kéo dài vài tuần
lễ. Lúc đó nước chảy xiết, những khóm lục bình cùng rác rến, xác thú vật… hè
nhau kết bè xâm lấn mặt sông, nhìn giống như mụ đàn bà lên cơn hung dữ, nanh
nọc, xấu xí vô cùng. Thì ra không phải lúc nào nhánh sông sau nhà tôi cũng
phẳng lặng như nàng thiếu nữ hiền hoà, thuỳ mị.
Một hôm có đứa trẻ ở lứa tuổi chúng tôi tắm sông rồi bị nước cuốn trôi
chết đuối. Má sợ nên không cho phép chị em tôi xuống nước tập bơi lội, dù dưới
bến, ngoại có đặt nhiều tảng đá to để khi nước ròng thì người lớn xuống ngồi
giặt quần áo, rửa rau khoai, cá thịt. Má bắt phải ngồi trên cái cầu lót ván cất
de ra ngoài sông, diện tích khoảng sáu mét vuông. Một góc quây lại thành nhà
tắm kín đáo cho người lớn, còn tụi trẻ cứ tha hồ ngồi tắm lộ thiên chả sợ phạm
thuần phong mỹ tục gì. Dùng cái thùng plastic mười lít cắt làm hai đóng thanh
gỗ ngang, cột dây để thòng xuống sông múc nước lên tắm gội.
Mỗi ngày khoảng bốn giờ chiều là má kêu chị Ba, tôi, em Năm, em Sáu đi
tắm. Trời chiều ngã bóng về Tây, gió hiu hiu thổi đung đưa mấy tàu lá dừa cạnh
bến, mặt nước dâng cao hai bên bờ, sạch trong mát rượi. Làm sao mà lũ trẻ chúng
tôi không háo hức chỉ muốn hoà vào làn nước ngọt ngụp lặn vùng vẫy thoả thích
cho được. Hồi đó chị Hai được coi như người lớn rồi, dù chỉ mới có 13, 14 tuổi
gì thôi, nên chị không được quyền tắm ngoài trời thênh thang gió lộng
nữa.
Má ngồi trên nhà nơi có đặt bàn máy may nhìn ra cửa sau, từ nơi đó, má
có thể vừa ngó xuống cầu trông chừng bốn chị em tôi vừa may quần áo cho người
lối xóm kiếm thêm thu nhập phụ với ngoại và ba nuôi chúng tôi.
Mấy chị em tôi tuy ngoan ngoãn nhưng đôi khi sức cám dỗ của dòng sông
quá mãnh liệt nên chúng tôi dám vượt qua nỗi sợ bị phạt bằng cách nghĩ ra mưu
kế để lừa má! Là một đứa ngồi trên cầu, miễn vị trí sao cho má từ trên nhà nhìn
xuống là thấy, còn ba đứa kia thì nhào xuống sông lặn ngụp. Lần lượt đứa này
thay phiên đứa kia lên cầu, cũng giả bộ múc nước tắm kỳ cọ để đứa khác nhảy
xuống. Cứ vậy, xoay vòng từng đứa, đến khi má thấy tắm đủ lâu kêu lên mặc quần
áo thì mới chịu lên mặc quần áo. Ngày nào cũng lập lại y như ngày đó.
Cho đến một ngày, tôi bị đỉa đeo vào người thì việc lừa gạt này mới chấm
dứt.
Bữa đó, khi tới phiên tôi phải leo lên ngồi canh má trên cầu thì chị Ba
kịp phát giác, kêu lên:
-A, Thanh Hà bị đỉa đeo ở chân kìa.
Chưa thấy, chỉ mới nghe tiếng đỉa đeo là tôi đã sợ điếng hồn nhảy tót
lên bờ ngồi, vừa giẫy hai chân đành đạch vừa thét la inh ỏi to, đến nhà hàng
xóm cũng đổ xô ra coi có chuyện gì. Má bỏ cái áo đang may chạy vội xuống cứu
nguy. Người ta nói: “dai như đỉa” quả không sai, má nắm đầu này thì nó móc vào
đầu kia, phải mất lúc lâu mới giật nó ra khỏi chân tôi được.
Eo ơi, nhắc đến mà còn nổi gai ốc cùng mình. Thế là chuyện lén má xuống
tắm sông bị đổ bể. Bốn chị em phải khoanh tay xin lỗi má và hứa từ nay về sau
không tái phạm nữa.
Vì vậy mà chị em tôi không ai biết bơi lội dù nhà ở sát mé sông. Chỉ khi
sang đây, tôi mới được chồng dạy khi đi tắm thermale cùng nhau. Như cá từ lâu
thiếu nước, tôi chỉ tập vài lần là bơi được. Lúc đầu vài sải, dần dần mỗi ngày
mỗi tiến bộ, nhiều hơn, nhanh hơn. Bao nhiêu năm nay, tôi đi piscine đều đặn
cách hai ngày một lần, và mùa hè thì ra biển vẫy vùng cùng ngọn sóng đại dương.
4/
Nhắc việc tắm sông, tôi nhớ một câu chuyện vô cùng xúc động và thương
tâm về sự trung thành của chú chó Bernard của chúng tôi. Nhà tôi có nuôi một
con chó Đức giống Saint Bernard, được miêu tả là rất thông minh, can đảm, mạnh
mẽ, trung thành, tin tưởng, vâng lời, trực giác bén nhạy trước nguy hiểm.
Hiện nay ở Thuỵ Sĩ, các vị linh mục sống trên vùng núi cao Grand
Saint-Bernard vẫn còn nuôi giống chó này để canh giữ bảo vệ họ, và cứu hộ nếu
chẳng may có người leo núi gặp nạn do tuyết lở.
Như tôi nói, hồi ấy xóm tôi vắng hoe, ngoài đường ít người qua lại. Nhà
bà dì Tư (em ruột bà ngoại) kế cận nhà chúng tôi. Bà có ba người con gái, hai
dì lớn đã lấy chồng, còn dì út năm ấy 17 tuổi nhưng tánh còn ngây thơ khờ dại
đến độ mỗi lần tắm, dì cứ tự nhiên cởi phăng hết quần áo nhảy xuống sông, xong
cứ trong dáng hình Eva như vậy mà nghênh ngang đi vòng qua sân nhà tôi để về
nhà dì. Ông ngoại tôi đang nằm võng trước hiên thấy, mắng:
-Trời, cái con Bé này, sao mầy lớn tồng ngồng cái đầu mà còn tắm trần
truồng đi ngời ngời hổng biết mắc cỡ gì hết vậy hả con quỉ. Người ngoài nhìn
vào còn thể thống gì nữa chứ. Thiệt hết biết luôn.
Sau lần đó thì dì mặc nguyên quần áo xuống sông tắm gội chứ không còn
diễn show khoả thân nữa.
Trở lại chuyện chú chó Bernard yêu quí của chúng tôi. Nó là con trai mà
ba tôi đã làm cho nó không còn khả năng của đấng nam nhi nữa. Bernard rất thân
với chị em tôi, suốt ngày cứ quấn quýt đùa giỡn. Chúng tôi đè đầu cưỡi cổ mà nó
vẫn vui vẻ để chúng tôi thích làm gì thì làm, giống như một người chú nhân từ
với bầy cháu lí lắc (tính theo tuổi thọ của chó, nếu năm năm thì tương đương
với người 40 tuổi). Nhưng nếu người ngoài mà có ý định chọc ghẹo hay giả bộ
đánh chúng tôi thì chú ta sủa vang, sấn sổ chồm lên như muốn nuốt sống họ vậy.
Một chiều nọ, dì Út rủ chị em tôi xuống tắm. Ngoại lệ, chị Hai cũng tham
gia. Có dì Út nên chị Hai thử ra hơi xa bờ. Chẳng may bị hụt chân, chị không
biết bơi nên ôm chặt cổ dì Út khiến cả hai cùng chìm đầu xuống nước. Bernard
đứng trên bờ canh chừng tự nãy giờ, tưởng là dì Út hành hung chị Hai, bèn nhảy
ngay xuống nước, nhắm vào dì Út cắn tơi bời.
Cả dì Út lẫn chị Hai càng chìm sâu thêm. May bà ngoại xuất hiện kịp
thời, bơi ra kéo hai người lên bờ. Vào bờ rồi, dì Út, chị Hai bị uống nước ho
sặc sụa. Lúc đó Bernard vẫn còn tức giận, cứ sủa như quát vào mặt dì Út, đến
chừng bà ngoại quay sang cắt nghĩa với nó thì chú chàng mới chịu im. Có lẽ nó
không hiểu từng lời, nhưng qua cách nói chuyện cùng cử chỉ nhẹ nhàng của ngoại,
nó hiểu rằng dì Út không có ý làm hại chị Hai.
Tưởng rằng Bernard sẽ làm bạn với chúng tôi mãi mãi, ai ngờ một hôm chị
em chúng tôi đi học về, không thấy chú ra chào đón như thường lệ. Hỏi thì ngoại
nói chú Năm, em của ba ở Tà Niên, thấy chú khôn ngoan nên mượn về để giữ lúa
một thời gian. Mẹ tôi nể nên đành để chú Năm đem đi. Chị em tôi buồn vô tả,
trách sao chú Năm nỡ bắt Bernard của chúng tôi vậy.
Nhưng đến chiều thì ô kìa! Bernard xuất hiện trước ngưỡng cửa, mừng sao
kể xiết. Thì ra chú Năm cột Bernard bằng dây nối vào xe đạp chạy theo sau chú,
nhưng đến nhà chú cách 5 km, vừa mở dây ra là chàng phóng một mạch theo con
đường vừa đi qua để trở về với chúng tôi.
Tưởng rằng – lại tưởng rằng – thế là từ nay Bernard được yên thân, ai
ngờ – lại ai ngờ – chú Năm tôi quyết bắt cho được chó thân yêu của chúng tôi.
Lần sau, chú đem ghe bầu chở lúa đến, lúc chúng tôi cũng đang ở trường.
Đinh ninh Bernard cũng sẽ tìm được đường về như lần trước, nhưng chiều
lại đêm, ngày qua ngày, Bernard vẫn biệt tăm. Bernard ơi, sao chú không về với
chị em tôi nữa? Bẵng vài tuần sau, chú Năm ghé qua, kể rằng khi bỏ Bernard vào
ghe, cột lại sợ chú lại thoát như lần trước. Lúc về đến nhà chú Năm mở dây đem
Bernard lên bờ thì chú nhảy luôn xuống sông bơi ngược lại đoạn đường vừa đi
qua. Chú Năm chèo xuồng theo để bắt nhưng không đuổi kịp. Bơi một lúc thì
Bernard đuối sức rồi chìm luôn xuống nước, chết oan uổng, tức tưởi, thương tâm.
Cái kết cuộc quá bi thảm cho một chú chó trung thành, thông minh, dũng
cảm. Thà chết chứ không sống hai chủ, hai lòng.
Viết đến đây, tôi thấy mắt mình đỏ lên rồi.
Từ đó chị em tôi không thích nuôi chó nữa. Bernard đã chiếm một chỗ
trang trọng trong trái tim chúng tôi nên chẳng còn chú chó nào có thể thay thế
được.
5/
Đây chỉ là một mảng nhỏ trong bức tranh vẽ về thời thơ ấu đầy ắp những
sắc màu sinh động, vui nhiều buồn ít của tôi. Tuy cuộc sống thanh đạm, giản dị
nhưng tràn ngập tình thương yêu từ ông bà ngoại, ba má dành cho đàn con cháu,
sự gắn bó đoàn kết giữa các chị em chúng tôi đến tận bây giờ. Đó chính là gia
tài vô giá mang lại hạnh phúc cho con người chứ không phải tiền tài hay danh
vọng tạo nên.
Ngoài ra tôi còn có chị bạn Chuột, chị Kim Lên chân thật, chú chó
Bernard hết dạ trung thành mà không phải ai cũng may mắn có được trong đời. Chị
Chuột ơi, em thường xuyên nghĩ đến chị, chị biết không? Con vật mà em sợ hãi
nhất trong đời là chuột, nhưng em muốn gọi chị bằng cái tên mộc mạc nầy chứ
không phải Kim Lên để chị thấy tình cảm em đối với chị mạnh mẽ cho em vượt qua
nỗi sợ đó.
Hy vọng với thần giao cách cảm, chị nghe bằng trái tim tiếng gọi thầm
nhưng mãnh liệt của em rồi đi tìm em như bao câu chuyện thần tiên thường đọc
trong sách vở chăng? Và sau cùng, với tất cả sự trìu mến, tiếc thương, tôi dành
cho Bernard – chú chó trung thành can đảm đến mất cả sinh mạng vì chúng tôi.
Bernard ơi!…
Thanh Hà
Nguồn: https://saigonnhonews.com/van-hoa-van-nghe/tan-man/mot-mang-doi-tho-au/
304Đen – Llttm - dsc
No comments:
Post a Comment