ĐỜI BUỒN NHƯ BOLERO CỦA
NHẠC SĨ TRÚC PHƯƠNG
Chẳng
quá lời khi gọi Trúc Phương là “Ông hoàng nhạc Bolero”. Với cả gần trăm ca
khúc, hầu như bài hát nào của ông cũng có một sức sống bền bỉ mãi cho đến ngày
hôm nay ở bất cứ nơi nào có người Việt sinh sống… Tài năng của ông thì ai cũng
thấy, nhưng đời ông thì lại trải qua quá nhiều bất hạnh và đau thương, khốn khổ
cho đến tận giờ phút cuối cùng.
T.K.
tổng hợp
Tài
hoa, mệnh bạc
Nhạc sĩ Trúc Phương tên thật là Nguyễn Thiện Lộc. Ông sanh năm 1939 tại xã
Mỹ Hoà, quận Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh (Vĩnh Bình) ở vùng hạ lưu sông Cửu Long.
Cha ông là một nhà giáo sống thầm lặng và nghiêm khắc. Nhưng tâm hồn của chàng
trai Thiện Lộc thì rất lãng mạn, yêu thích văn nghệ nên đã tự học nhạc, và bắt
đầu sáng tác những bài hát đầu tiên lúc vừa 15 tuổi. Xung quanh nhà ông có
trồng rất nhiều tre trúc, nên từ nhỏ ông đã yêu mến những âm thanh kẽo kẹt của
tiếng tre va chạm với nhau và sau này đã chọn tên là Trúc Phương để nhớ về thời
thơ ấu của ông với những cây tre trúc.
Cuối thập niên 1950, ông sinh hoạt văn nghệ với các nghệ sĩ ở ty Thông
Tin tỉnh Vĩnh Bình một thời gian ngắn, rồi lên Sài Gòn dạy nhạc và bắt đầu viết
nhạc nhiều hơn. Bài hát “Chiều Làng Quê” được ông sáng tác vào thời gian này để
nhớ về khung cảnh thanh bình ở làng xóm của ông, một bài khác cũng rất nổi
tiếng với giai điệu trong sáng, vui tươi là “Tình Thắm Duyên Quê”.
Không tiền bạc và không một ai thân quen ở đô thành Sài Gòn, ban đầu
Trúc Phương ở trọ trong nhà một gia đình giàu có bên Gia Định và dạy nhạc cho
cô con gái của chủ nhà. Không bao lâu sau thì cô gái này yêu chàng nhạc sĩ
nghèo tạm trú trong nhà. Biết được chuyện này, cha mẹ cô bèn đuổi Trúc Phương
đi nơi khác. Sau chuyện tình ngang trái này, Trúc Phương càng tự học thêm về âm
nhạc và càng sáng tác hăng hơn. Những bài hát sau này của ông nghiêng về chủ đề
tình yêu với những nghịch cảnh chia lìa.
Trúc Phương sáng tác rất dễ dàng, nhưng với bản tính trầm lặng, bi quan
và khép kín sau những cuộc tình dang dở, sáng tác của ông thường mang âm điệu u
buồn, thê lương như phảng phất nỗi sầu của cổ nhạc miền Nam. Nổi tiếng nhất là
“Nửa Đêm Ngoài Phố” với tiếng hát liêu trai Thanh Thúy. Sau đó là “Buồn Trong
Kỷ Niệm” với những câu hát đớn đau, buốt nhói tim gan người nghe như “Đường vào
tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần buồn. Đôi khi nhầm lẫn đánh mất ân tình
cũ, có đau chỉ thế, tiếc thương chỉ thế. Khi hai mơ ước không chung lối về…” Có
người cho là bài hát này ông đã viết ra sau khi bị thất tình một cô ca sĩ lừng
danh thời đó.
Nhạc của Trúc Phương có một giai điệu rất đặc biệt của riêng ông, mà khó
lầm lẫn với người khác được. Nó trầm buồn, ray rứt, ưu tư và buồn phiền vì
những mối tình dang dở, trái ngang. Nên khi soạn hòa âm cho những bài hát của
Trúc Phương, nhạc sĩ hòa âm phải sử dụng ít nhất là một trong vài loại nhạc khí
cổ nhạc như đàn bầu, đàn tranh, hay đàn cò (hoặc violon) thì mới có thể diễn tả
hết cái hay của dòng nhạc Trúc Phương và người nghe lại càng thấm thía với nỗi
muộn phiền, nhức nhối tim gan của ông.
Tên tuổi và tài năng sáng chói, nổi bật, nhưng tình duyên của nhạc sĩ
Trúc Phương thì vô cùng lận đận. Khoảng năm 1970, Trúc Phương được một thiếu nữ
vô cùng xinh đẹp, cao sang đài các đem lòng yêu thương ông, do rung cảm từ tài
năng và những tác phẩm tuyệt vời của ông. Cả hai đã nên duyên chồng vợ. Tuy
sống trong cảnh nghèo nàn, đó là những năm tháng hạnh phúc nhất trong cuộc đời
của Trúc Phương và ông sáng tác sung mãn hơn bao giờ hết với hàng chục bài hát
ra đời mỗi năm. Nhưng niềm vui của đôi uyên ương này không kéo dài được lâu. Sau
một thời gian chung sống với nhau, những tình cảm ban đầu trở nên phai lạt dần
theo năm tháng và hai người đã lặng lẽ chia tay nhau. Câu hát ngày nào lại rơi
đúng vào trường hợp này “khi hai mơ ước đã không cùng chung hướng về” và “đường
vào tình yêu có trăm lần vui, nhưng có vạn lần buồn”? Nhạc sĩ Trúc Phương âm
thầm đau khổ trong cô đơn và lại vùi đầu vào men rượu để sáng tác thêm nhiều
bài hát trong nỗi đau thương cùng cực, pha chút chán chường cho nhân tình thế
thái.
Bạn bè thường gặp ông ngồi yên lặng bên những ly rượu nơi một quán nhỏ ở
đường Tô Hiến Thành, quận 10, gần nhà của ông. Có lẽ đó là một cách làm cho
nhạc sĩ tạm quên đi những cay đắng của tình đời. Đó cũng chính là lúc bài hát
“Thói Đời” được sáng tác với những câu như “Bạn quên ta, tình cũng quên ta, nên
chung thân ta giận cuộc đời, soi bóng mình bằng gương vỡ nát, nghe xót xa ngùi
lên tròng mắt”… và “Người yêu ta rồi cũng xa ta … “Cỏ ưu tư” buồn phiền lên xám
môi …”. Thực ra phải nói là “cỏ tương tư” tức “tương tư thảo” là tên gọi văn hoa
của thuốc lá. Những giọt rượu nồng của cõi “trần ai” này lại càng gợi thêm
“niềm cay đắng” để cho nỗi ưu tư “in đậm đường trần”.
“Thói Đời” lại như là một lời tiên tri thật chính xác cho quãng đời còn
lại của ông suốt gần 25 năm sau đó (1971-1995).
Sau năm 1975 thì sự nghiệp sáng tác nhạc của ông dừng lại, tất cả những
ca khúc của ông đều bị cấm phổ biến và trình diễn. Ông vượt biên không thành
nên mất căn nhà trên đường Nguyễn Văn Thoại. Không nghề nghiệp, không nhà, ông
làm đủ mọi việc để sinh sống. Với hai bàn tay trắng, ông trở về quê cũ sống nhờ
vả bạn bè, mỗi nơi một thời gian ngắn. Có người hỏi sao ông không về quê ở hẳn
với thân nhân, Trúc Phương đã trả lời “Má của tôi thì già yếu đang ở dưới quê
Cầu Ngang (Trà Vinh), nhưng bà nghèo quá, lại phải nuôi đám cháu nheo nhóc,
không đủ ăn … nên tôi không thể về đó để làm khổ cho bà thêm nữa.”
Ở dưới tỉnh nhà Trà Vinh với bạn bè xưa cũ một thời gian, Trúc Phương lại tìm
đường về Sài Gòn. Ban ngày ông làm thuê, làm mướn đủ mọi thứ nghề và lang thang
khắp nơi. Bạn ông kể có một dạo bạn bè cho tá túc, ông sống trong một cái
chuồng heo được sửa sang chút đỉnh, mà cũng chẳng được bao lâu…
Ông có tâm sự lại vài lời xót xa, nghẹn ngào, xúc động trên một đoạn
video clip ngắn ngủi về đời sống của chính bản thân ông lúc đó như sau: “Sau
cái biến cố cuộc đời, tôi sống cái kiểu rày đây mai đó, “bèo dạt hoa trôi”… Nếu
mà nói đói thì cũng không đói ngày nào, nhưng mà no thì chẳng có ngày nào gọi
là no… Tôi không có cái mái nhà, vợ con thì cũng tan nát rồi, tôi sống nhà bạn
bè, nhưng mà khổ nỗi hoàn cảnh họ cũng bi đát, cũng khổ, chứ không ai đùm bọc
ai được… đến nữa lúc đó thì vấn đề an ninh có khe khắt, lúc đó thì bạn bè tôi
không ai dám “chứa” tôi trong nhà cả, vì tôi không có giấy tờ tùy thân, cũng
chẳng có thứ gì trong người cả. Tôi nghĩ ra được một cách… là tìm nơi nào mà có
khách vãng lai rồi mình chui vào đó ngủ với họ để tránh bị kiểm tra giấy tờ…
Ban ngày thì lê la thành phố, đêm thì phải ra xa cảng thuê một chiếc chiếu, một
chiếc chiếu lúc bấy giờ là một đồng… thế rồi ngủ cho tới sáng rồi xếp chiếc
chiếu trả người ta… thế là mình lấy một đồng về… như là tiền thế chân… Một năm
như vậy, tôi ngủ ở xa cảng hết 9 tháng… Mà nói anh thương… khổ lắm… Hôm nào mà
có tiền để đi xe lam mà ra sớm khoảng chừng năm giờ có mặt ngoài đó thế rồi
thuê được chiếc chiếu trải được cái chỗ lịch sự chút tương đối vệ sinh một tí
mà hôm nào ra trễ thì họ chiếm hết rồi, những chỗ sạch vệ sinh họ chiếm hết
rồi, tôi đành phải trải chiếu gần chỗ “thằng cha đi tiểu vỉa hè”, thế rồi cũng
phải nằm thôi. Tôi sống có thể nói là những ngày bi đát… mà lẽ ra tôi nên buồn
cho cái hoàn cảnh như thế nhưng tôi không bao giờ buồn… Tôi nghĩ mà thôi, còn
sống cho tới bây giờ và đó cũng là một cái chất liệu để tôi viết bài sau này…
Và ông âm thầm từ giã cõi đời trong cảnh nghèo nàn, bi đát và cô đơn
trong căn phòng trọ tồi tàn, nhỏ hẹp ở quận 11, Sài Gòn vào ngày 18 tháng 9 năm
1995, tài sản của ông có được lúc đó chỉ là một đôi dép…
Trúc Phương ghi lại biết bao cuộc tình lãng mạn ướt át nồng nàn. “Nửa
đêm ngoài phố” lang thang, tình cờ làm quen một người con gái lạ, rồi để lòng
vương vấn mãi: “Buồn vào hồn không tên, thức giấc nửa đêm nhớ chuyện xưa vào
đời. Ðường phố vắng đêm nao quen một người..” hoặc “Trở lại chuyện hai chúng
mình. Khi em với anh…” làm quen, hẹn hò cùng nhau đi tới mòn lối, khiến nó trở
thành “Con đường mang tên em”. Cũng có những lúc cô đơn, rút về nhốt mình nơi
nhà trọ, nhưng Ðêm gác trọ chỉ nói lên nỗi buồn bâng quơ có vương chút phấn
chấn nhờ thể điệu Tango, mà Trúc Phương ít khi dùng trong hầu hết các nhạc phẩm
của mình. Rồi có lúc người yêu xưa tìm đến, cùng nhau ôn chuyện cũ, nhắc lại
Chuyện ngày xưa, được ghi lại: “Hôm nào em đến thăm, mà quên mang tiếng cười,
lặng yên không nói. Hai mươi tuổi đời qua mất rồi… Thôi em nhé, xin trả về niềm
cô đơn trước, cho anh bước xuôi ngược, khi hai chúng mình, vòng tay trót buông
xuôi, dù gặp nhau ta cúi mặt bước mà đi ”
Tiếng
hát khói sương và nhạc sĩ Trúc Phương
Nhắc đến Tiếng Hát Liêu Trai, Tiếng ca U Hoài, Tiếng Hát Khói Sương
Thanh Thúy phải nhắc đến Trúc Phương. Hình ảnh Thanh Thúy là nguồn cảm hứng cho
ông sáng tác nhiều tuyệt phẩm mà giọng hát Thanh Thúy đã làm cho đi vào tâm
khảm bao người: Chuyện Chúng Mình, Hai Lối Mộng, Ai Cho Tôi
Tình Yêu, Chiều Cuối tuần, Buồn Trong Kỷ Niệm, Bóng Nhỏ Đường Chiều, Tàu Đêm
Năm Cũ, …
Trúc Phương đã viết tặng riêng Thanh Thúy một số ca khúc: Hình bóng cũ, Lời ca ca nữ, Mắt em buồn, Tình yêu trong mắt một
người, Mắt chân dung để lại.
Hãy nghe Thanh Thúy- người hát nhạc ông thành công nhất, nói về ông
trong một số báo tưởng niệm ở hải ngoại sau khi ông mất:
“Anh và tôi không hẹn, nhưng đã gặp nhau trên con đường sống cho kiếp
tằm. Anh trút tâm sự qua cung đàn, còn tôi qua tiếng hát. Trong khoảng thập
niên 60, tên tuổi Anh và tôi như đã gắn liền với nhau: nhạc Trúc Phương, tiếng
hát Thanh Thúy.
Như một định mệnh, tôi vào đời ca hát đúng vào thời điểm Anh say mê sáng
tác, và tình cờ trở thành vị sứ giả đem tâm sự Anh đến mọi người, những người
không nhiều thì ít cùng mang một tâm sự với Anh. Tâm sự về tuổi thơ mộng, về
tình yêu dịu dàng của đôi lứa (dù trong bối cảnh đau thương của đất nước), về
chuyện tình dở dang, về cuộc đời…
Đến khi nhạc phẩm “Nửa Đêm Ngoài Phố” ra đời, tên tuổi Anh đã vang dậy
khắp nơi. Với thể điệu Rumba quen thuộc, diễn tả tâm trạng đau buồn của một
người khi người yêu không đến nữa, “Nửa Đêm Ngoài Phố” đã ăn sâu vào lòng tất
cả mọi người, từ những người lớn tuổi, cho đến lớp người trẻ lúc bấy giờ. Bất
cứ buổi trình diễn nào, tôi cũng được yêu cầu trình bày “Nửa Đêm Ngoài Phố”, từ
các sân khấu phòng trà, khiêu vũ trường cho đến Đại Nhạc Hội, từ các thôn làng
nhỏ bé cho đến các tiền đồn hẻo lánh xa xôi. Ngoài ra, trong những chương trình
phát thanh của đài Sài Gòn và đài tiếng nói Quân Đội, vào bất cứ chương trình
nhạc nào cũng có bài này…
Cũng như “Nửa Đêm Ngoài Phố”, nhiều nhạc phẩm của Anh đã trở thành gần
gũi với mọi người và đã giúp tôi leo cao hơn trên nấc thang sự nghiệp. Các bài
này gồm có: Nửa Đêm Ngoài Phố, Buồn Trong Kỷ Niệm, Hai Lối
Mộng, Chiều Cuối Tuần, Mưa Nửa Đêm, Tàu Đêm Năm Cũ, Hai Chuyến Tàu Đêm, Chuyện
Chúng Mình, Đêm Tâm Sự, Hình Bóng Cũ, Đò Chiều, Chiều Làng Em…
Thế rồi, theo như Anh hơn một lần tâm sự, đường đời đã chia đôi chúng
tôi ra hai ngã, hai hướng đi. Tôi đã giã từ sân khấu, giã từ lời ca tiếng nhạc,
giã từ tất cả, theo chồng đi đến những phương trời xa. Còn Anh vào quân ngũ, và
vẫn tiếp tục hăng say sáng tác, hầu hết những nhạc phẫm đều nói về đời người
lính phong sương, xa nhà, xa thành phố, xa người em nhỏ hậu phương… (24 Giờ Phép, Bông Cỏ May, Kẻ Ở Miền Xa, Trên 4 Vùng Chiến Thuật…)
Vào thời điểm này, anh Duy Khánh, anh Chế Linh và Hoàng Oanh có lẽ là
những ca sĩ đã hát nhạc của Anh rất nhiều.
Kiếp tằm chưa dứt, tôi đã trở lại với sân khấu, với ánh đèn màu. Trở lại
với “Nửa Đêm Ngoài Phố”, với “Buồn Trong Kỹ Niệm”…
Rồi lại thêm một lần cuộc đời lại chia đôi chúng tôi ra hai ngã: Anh kẹt
lại quê nhà, tôi sống đời lưu vong. Tôi đã tìm đủ mọi cách để liên lạc hầu mong
gởi về những gói quà biếu Anh. Sự liên lạc trong những năm đầu thật khó khăn,
cho mãi tới sau này, qua một số bạn bè và qua Trần Quốc Bảo, tôi mới có thể
liên lạc thường hơn với Anh. Tuy nhiên, tôi rất lo lắng về bịnh tình Anh do
Trần Quốc Bảo kể lại. Nhìn những tấm ảnh Anh gởi qua đăng trên Thế Giới Nghệ
Sĩ, trông Anh gầy gò, đau yếu, tôi đã không sao cầm được nước mắt. Tôi đã bàn
với Trần Quốc Bảo thực hiện một cuốn băng với toàn nhạc của Anh, hầu có thể
giúp Anh phần nào trên phương diện vật chất lẫn tinh thần. Chợt nghe tin Anh
đau nặng… Chợt nghe tin Anh qua đời…”
304Đen – Llttm - sgtc
No comments:
Post a Comment