Ngày
xưa, mỗi khi nghe tiếng bon bon, âm thanh đặc trưng của xe Lam là đám con nít
trong xóm tôi ở Sài Gòn đứng phía sau ống bô xe hít lấy hít để mùi thơm của
xăng.
Nguồn
gốc xe lam
Tên
gọi xe Lam – gọi tắt chữ đầu của hiệu xe Lambro, sản xuất từ Ý, có nguồn gốc từ
các dòng xe 3 bánh của Lambretta FD (dung tích xi lanh 123 và 150 cc), FLI (175
cc) và sau đó là Lambro 200, 550 (đều có dung tích 198 cc) do Công ty cơ giới
Innocenti chế tạo.
Dòng
quảng cáo về xe Lam thời đó của một hãng buôn nhập cảng vào Sài Gòn năm 1967:
“Máy trước, vừa đề, vừa đạp. Đặc điểm hoàn toàn làm tại Ý Đại Lợi – Trọng tải
hữu dụng 550 ký… Xe có bán tại Lambretta Việt Nam – VINACO và khắp các đại lý
trên toàn quốc. Chú ý: không có xe Lam bốn bánh, chỉ có xe Lam ba bánh”. Câu
quảng cáo đó như xác định đặc tính của xe Lam là chỉ có ba bánh, có thùng nhỏ
phía sau chở được 8 người khách và gồm một cabin cho tài xế ngồi lái phía
trước, dưới ghế ngồi của tài xế là thùng đặt máy xe. Kẹt kẹt, khi đông khách và
đoạn đường nào vắng bóng cảnh sát công lộ thì bác tài cho hai người ngồi cạnh
mình trên băng tài xế.
Thời
ấy do muốn phát triển mạng lưới hệ thống giao thông công cộng nên Nha Lộ vận
Sài Gòn khuyến khích sự có mặt của xe Lam. Chưa có tài liệu chính xác cho biết
xe Lam ra đời vào năm nào nhưng áng chừng vào khoảng năm 1966. Thoạt đầu, chỉ
những người nằm trong diện “chính sách” như gia đình công chức, những người
chạy taxi hay xích lô máy chuyển nghề mới được chạy xe Lam. Muốn mua được một
chiếc xe Lam, theo quy định của Bộ Kinh tế ngày 29.3.1966, họ phải đóng trước
3/4 số tiền vào trương mục phong tỏa của hãng nhập cảng mở tại Tổng nha Ngân
khố.
Đến
tháng 7.1968, do số cung và số cầu về xe Lam đã quân bình cũng như thấy xe Lam
đã trở thành phương tiện chuyên chở hành khách thông dụng, hàng hóa trên các
trục lộ giao thông nên Tổng trưởng Kinh tế Âu Ngọc Hồ đã ký quyết định bãi bỏ
quy định ngày 29.3.1966. Đô thành Sài Gòn năm đó tròm trèm hai triệu dân, đường
thoáng hơn bây giờ nhưng ngoài xe buýt, xe Lam vẫn được sử dụng như một phương
tiện chuyên chở.
Điều
này đã thúc đẩy số lượng xe Lam gia tăng. Lúc ấy, gồng gánh bằng ngân sách nhà
nước không nổi nên tháng 12.1968, Thủ tướng Trần Văn Hương (Sài Gòn) đã ký sắc
lệnh giải tán Công quản xe buýt Sài Gòn để giao cho tư nhân khai thác. Đến cuối
năm 1968, toàn miền Nam có 17.615 xe Lam, trong đó đô thành Sài Gòn – Gia Định
có 3.200 xe Lam, 7.400 taxi, 2.440 xích lô máy (nguồn: Đoàn Thêm – 1969 Việc
từng ngày). Đến năm 1971, xe Lam là phương tiện vận chuyển quan trọng nhất Sài
Gòn cũng như các tỉnh miền Nam vì hệ thống xe buýt đã ngưng hoạt động và chưa
phục hồi. Theo báo chí lúc đó thì toàn miền Nam có 30.668 chiếc, số xe Lam lưu
hành gấp 7 lần xe taxi.
Cạnh
tranh với xe buýt
Sở
dĩ xe Lam phát triển, dù vé xe Lam mắc hơn xe buýt (vé xe buýt là 2 đồng, vé xe
Lam là 5 đồng) vì tiện lợi hơn xe buýt nhiều. Ngoài hai bến xe cố định ở hai
đầu đi và đến, theo lộ trình được ghi trên thành xe, hành khách có thể xuống
bất cứ nơi nào chứ không cần phải đến trạm như xe buýt vì xe Lam không có trạm.
Bất cứ lúc nào, khi ta muốn đi thì chỉ cần giơ tay vẫy là xe Lam sẽ ngừng lại
để khách bước lên nếu xe còn chỗ; nếu không khách chỉ cần đợi chuyến sau. Người
buôn bán có thể chất quang gánh, bao và một số thứ linh tinh trên nóc xe – điều
mà xe buýt không chấp nhận.
Với
nhiều khách, ngồi xe Lam mát mẻ hơn xe buýt thời đó (không có máy lạnh), được
hít không khí trời, không sợ bị móc túi rồi còn mơ tưởng biết đâu lại chẳng có
mối tình xe Lam như lời một bài hát của nhạc sĩ Vinh Sử:
Trên
chuyến xe lam đông người chiều nao
Chúng mình không quen mà ngồi bên nhau
Trời mang nhiều trớ trêu chi
Người chưa hề biết quen gì
Sao ngồi gần như tình nhân si
Em xuống xe Lam đi về thẹn sầu
Anh vội theo chân ngõ hồn xuyến xao...”.
Sau
năm 1975, một thời kỳ xe Lam vô cùng hữu dụng với người Sài Gòn khi không có xe
buýt, vắng bóng taxi. Nhưng phương tiện vận chuyển này dần dần biến mất từ khi
có Nghị định 23/2004/NĐ-CP, quy định về niên hạn sử dụng đối với các loại ô tô
tải và ô tô chở người tham gia giao thông trên hệ thống đường bộ, xe Lam bị hạn
chế và dần bị cấm hẳn. Đến bây giờ, mặc dù đang loay hoay tìm phương tiện vận
chuyển công cộng trên đường phố nhưng xe Lam vẫn chưa được phục hồi và phát
triển như là một chính sách mà thay vào đó là những chiếc xe buýt kềnh càng,
chen lấn, chạy ẩu, gây tai nạn chết người. Ở Thái Lan, hệ thống đường xá hoành
tráng là vậy vẫn còn thấy xe Tuk-Tuk (gần như là một “đặc sản” vận chuyển)
nhưng Sài Gòn thì “hãy cùng nhau buýt” dù cho nhà nước bây giờ đang bù lỗ đậm.
Bây
giờ, thỉnh thoảng vẫn thấy một chiếc Lam cũ, tơi tả xuất hiện đâu đó. Tiếng máy
xe không còn kêu bon bon, mùi khói xăng không còn thơm như trước nữa nhưng
người Sài Gòn không ai không nhớ tới những chuyến xe Lam – nhất là những chuyến
xe Lam chiều vội đưa người về với gia đình, với người yêu đang chờ trên phố
nhỏ. Còn đâu một chuyến xe Lam? Có chăng, chỉ còn lại dư âm trong bài Chuyến xe Lam chiều của nhạc sĩ Vinh Sử!
Lê
Văn Nghĩa
304Đen
– llttm - sgtc
No comments:
Post a Comment