VŨ
HÁN VÀ HOÀNG HẠC LÂU
Bài thơ
Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu ra đời tại thành Vũ Xương vào thế kỷ 8, thời thịnh
Ðường, với tám câu:
“Tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu
Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tĩnh xuyên lịch lịch Hán Dương Thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.”
Ngày xưa lầu Hoàng Hạc đẹp như thế nào thì ngày nay khó mà có ai có thể hình
dung ra được, nhưng “Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu” thì quả là một hình ảnh thật
đẹp. Ðẹp đến nỗi mà dù đã trải qua hơn 1250 năm rồi mà Hoàng Hạc lâu vẫn là một
hình ảnh thần tiên dịu ngọt kèm theo một nỗi buồn man mác trong lòng những
người đọc thơ của Thôi Hiệu, nhất là đọc qua bài thơ dịch tuyệt vời của nhà thơ
núi Tản sông Ðà Nguyễn Khắc Hiếu.
“Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh, cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.”
Con sông dài Trường Giang là con sông dài nhất (6,300 km) của Trung Hoa. Nguồn
sông phát xuất từ cao nguyên Thanh Tạng, chảy qua các bình nguyên Tứ Xuyên,
xuyên qua hẻm vực Tam Giáp rồi chảy vào bình nguyên Giang Hán. Cũng tại nơi
đây, một chi lưu sông Hán Thủy từ hướng Bắc cũng tuôn chảy nhập vào con sông
lớn Trường Giang tạo thành ngã ba sông Trường Giang – Hán Thủy.
Đây chính là khu vực địa danh lịch sử nổi tiếng của hơn ngàn năm trước của
Trung Hoa như Hạ Khẩu, Hán Dương, Di Lăng… (những ai đã từng thích thú với bộ
truyện Tam Quốc Chí đều nghe biết đến các địa danh trên). Ðây cũng chính là
khúc sông đã cho người đời sau những điểm di tích, những câu chuyện thần tiên
và các sự tích lưu truyền mà người dân Trung Hoa (và ngay cả những quốc gia nào
bị ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa) cũng đều biết đến. Nào là Ðộng Ðình Hồ, trận
thủy chiến Xích Bích nổi tiếng thời Tam Quốc của Chu Du – Khổng Minh – Tào
Tháo, Lầu Hoàng Hạc, Nhạc Dương Lầu, câu chuyện tri âm tri kỷ… có ai mà không
nghe đến.
Một trong những điểm văn hóa nổi bật ở ngã ba sông này, phải nói đến Lầu Hoàng
Hạc. Thử tìm hiểu đôi chút về “thân thế” của Hoàng Hạc Lâu như thế nào! Thời
cuối Ðông Hán thế kỷ thứ 3, vua nhà Ðông Hán nhu nhược bị các lộng thần chèn
ép. Tào Tháo lợi dụng danh nghĩa phò vua Hán chiếm giữ phía Bắc (sau là Tào
Ngụy), Lưu Bị xưng là tôn thất nhà Hán, lập ra nhà Thục Hán chiếm giữ miền Tây
Nam. Tôn Quyền lui về Giang Ðông lập ra Ðông Ngô, xưng đế hiệu Ngô Hoàng Vũ.
Thế Tam Quốc phân chia từ đó, thành Kinh Châu thuộc về Ðông Ngô nhưng “được”
Lưu Bị mượn và giao cho Quan Vân Trường (Quan Vũ). Vì ỷ y và khinh thường quân
tướng Ðông Ngô nên Quan Vũ thiệt mạng và để mất Kinh Châu về tay Ðông Ngô. Năm
223, Tôn Quyền ra lệnh xây thành Giang Hạ (Hạ Khẩu) bên ngã ba sông Trường
Giang và Hán Thủy để đóng quân. Trong cái thế Tam Quốc thời đó, Hạ Khẩu là một
thành trì chiến lược rất quan trọng vì cả ba nước Ngụy – Thục Hán – Đông Ngô
đều cho rằng phe nào chiếm được Hạ Khẩu thì phe đó sẽ chiến thắng cuộc chiến.
Nhằm để theo dõi binh tình, Tôn Quyền cho xây trên góc một ngọn đồi nhỏ cạnh
sông Trường Giang một tháp quan sát bên phía tây nam của thành Giang Hạ để theo
dõi binh tình. Ðứng trên tháp, người ta có thể quan sát được thuyền bè di
chuyển trên sông Hán Thủy và phía Tây của Trường Giang. Tháp quan sát này được
đặt tên là Hoàng Hạc Lâu. Cho đến ngày nay, không ai hiểu vì sao tháp lại có
tên là Hoàng Hạc Lâu, một cái tên có vẻ trong câu chuyện thần tiên hơn là một
cái tên dùng trong giới quân binh.
Dân tộc Trung Hoa thường có quan niệm triết lý “Thiên Nhân hợp nhất” nên họ
thường hay tạo ra những câu chuyện thần tiên trong bất cứ các câu chuyện lịch
sử, đền đài hay bảo tháp. Vì vậy, câu chuyện về ngọn tháp quan sát của Ðông Ngô
thời Tam Quốc cũng đã được thiên hạ ít nhiều khoác vào tháp canh những câu
chuyện thần tiên cho tháp.
Một
trong những câu chuyện thần tiên của ngọn tháp quan sát thời Đông Ngô, có lẽ
phát xuất từ thời Nam Bắc Triều, một thời đại loạn lạc liên miên khiến con
người không còn tin tưởng nhiều về đời sống, giữa cái bình yên và chiến tranh,
giữa cái sống và cái chết, giữa cái giàu sang và nghèo đói khốn cùng. Con người
thời đó có khuynh hướng nghiêng về các câu chuyện thần tiên để quên đi những
thực tại đau khổ (thời đại Cộng Sản ngày nay thì người ta dùng chiêu bài dân
tộc chủ nghĩa để “mị dân,” toàn quyền thống trị người dân vì sự tự ti của người
Trung Hoa bị đô hộ, thất trận, thua kém thế giới trong suốt thế kỷ 19 đến giữa
thế kỷ 20). Từ tâm lý đó, người ta dễ dàng lui về tìm một nơi chốn ẩn náu bình
yên để thêu dệt, tưởng tượng ra những điều mơ ước. Hoàng Hạc Sơn là một ngọn
đồi cao tại vùng Hạ Khẩu, gần bên thành Giang Hạ, vì vậy ngọn đồi này trở thành
một điểm lý tưởng cho con người thời Tam Quốc tìm về ẩn dật, lánh xa những
chuyện đời thường.
Trong thời Nam Bắc triều Trung Hoa, người ta lại nói về câu chuyện tiên ông
Vương Tử An cỡi hạc vàng bay trên ghềnh đá Hoàng Hạc của Hạ Khẩu. Ngồi trên
lưng hạc nhìn từ cao xuống, Tiên ông Tử An đã thấy được sự hiểm nghèo và hùng
vĩ của con sông Trường Giang, thấy được cái cao của ngọn tháp Ðông Ngô, thấy
được cái mênh mông của bình nguyên Giang Hạ.
Ðến đời nhà Ðường, thì câu chuyện tiên ông cỡi hạc vàng Vương Tử An được biến
đổi thành câu chuyện khác. Một vị thừa tướng của Thục Hán Lưu Bị tên Phí Vĩ bị
ám sát chết. Sau khi chết, Phí Vĩ được lên cõi tiên, ông cỡi hạc vàng và đã
dừng chân nghỉ trên ngọn tháp quan sát của Ðông Ngô. Vì sự tích này mà tháp này
được đặt tên là Hoàng Hạc Lâu.
Một số các câu chuyện thần tiên khác về Phí Vĩ nhưng được thêm thắt nhiều hơn.
Có truyện kể rằng sau khi lên tiên, Phí Vĩ hay thơ thẩn đi chu du đây đó, nhất
là hay thả bộ dọc theo bờ sông Trường Giang. Ông thường hay ghé vào một tửu lầu
ở cuối đồi Hoàng Hạc Sơn uống rượu nhưng ông không có tiền nên uống rượu “ghi
sổ.” Tuy nhiên, chủ quán vẫn luôn vui vẻ cho ông thiếu tiền rượu mà không hề
đòi.
Nhiều năm trôi qua như thế, bỗng một ngày Phí Vĩ gọi chủ nhân họ Tân lại nói:
“Tôi nợ ông tiền rượu quá nhiều rồi. Bây giờ là lúc tôi xin trả cho ông.” Nói
xong, Phí Vĩ một tay cầm vỏ cam, và gọi hạc vàng đến. Phí Vĩ leo cỡi hạc vàng
bay dọc theo bờ tường của tửu lầu nói vọng theo: “Mỗi khi có khách đến uống
ruợu thì ông hãy vỗ tay và hát lên thì ngay lập tức hạc vàng sẽ từ tường đá
hiện ra và múa theo điệu ông hát.” Nói xong Phí Vĩ bay mất!
Người chủ quán tuy nghi ngờ về những điều Phí Vĩ nói nhưng rồi thì vì tò mò ông
ta cũng làm theo những gì mà Phí Vĩ đã dặn. Và đúng như thế, mỗi lần họ Tân vỗ
tay và hát thì chim hạc luôn luôn hiện ra nhảy theo nhịp hát của ông. Cứ như
thế, mười năm trôi qua, chủ quán trở nên giàu có, nhưng lòng lúc nào cũng nhớ
đến Phí Vĩ. Chợt một hôm Phí Vĩ trở lại gặp họ Tân và hỏi rằng: “Chim hạc của
tôi đã trả nợ đủ tiền rượu cho tôi chưa?” Ðể cám ơn, chủ quán đã mời Phí Vĩ
dùng cơm tối, nhưng Phí Vĩ không nói gì, ông lấy ra một ống sáo bằng ngọc và và
thổi lên một tấu khúc. Chỉ trong chốc lát, một cụm mây trắng từ trời sa xuống,
hạc vàng bay đến chỗ ông. Phí Vĩ cỡi chim hạc và bay theo vầng mây trắng mất
hút vào trời không. Sau đó, người chủ quán đóng cửa tiệm rượu và dùng hết số
tiền mình có để xây Hoàng Hạc Lâu, để nhớ đến Phí Vĩ và hạc vàng. Người đời sau
dùng câu “bạch vân hoàng hạc/ mây trắng hạc vàng” để ám chỉ về sự tích này.
Ðến đời nhà Minh nhà Thanh, người ta còn có thêm thắt các câu chuyện thần tiên
khác vào với sự tích đời nhà Ðường. Nhưng có lẽ chúng ta cũng không cần biết
đến ở đây vì dù sao thì nhà thơ Thôi Hiệu đã viết bài “Hoàng Hạc Lâu” ở trong
không gian và thời gian đời nhà Ðường mất rồi!
Trải qua bao nhiêu thăng trầm với thời gian và lịch sử, Hoàng Hạc Lâu đã được
trùng tu và xây dựng lại nhiều lần. Triều đại nào của Trung Hoa cũng cho xây
lại Hoàng Hạc Lâu, không hiểu có phải vì bài thơ của Thôi Hiệu hay không? Nhưng
rõ ràng là dân gian Giang Hạ, người của đất Sở ngày xưa sống không thể thiếu
được Hoàng Hạc Lâu. Không ai muốn cho Hạc vàng bay đi mất cả!
Đời nhà Ðường, Hoàng Hạc Lâu đã được xem như là nơi đàn hát, tiêu khiển và
thưởng ngoạn phong cảnh của tao nhân mặc khách. Chẳng vì thế mà Thôi Hiệu, Lý
Bạch, Mạnh Hạo Nhiên, Ðỗ Phủ… và không biết là bao nhiêu thi tài đã dừng gót
tại Hoàng Hạc Lâu, ngắm cảnh “bạch vân hoàng hạc” và để lại cho đời sau những
thi ca bất tử. Một câu chuyện kể lại rằng khi Lý Bạch đến Hoàng Hạc Lâu ngắm
cảnh. Thấy cảnh sinh tình, nhà thơ muốn phóng tay viết về Hoàng Hạc Lâu nhưng
ông chợt thấy đã có bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Biện Châu Thôi Hiệu treo ở đấy.
Ðọc bài thơ của Thôi Hiệu, Lý Bạch đành bái phục mà viết rằng “nhãn tiền hữu
cảnh đạo bất đắc. Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu” (trước mắt có cảnh mà đành
chịu, vì thơ Thôi Hiệu viết trên đầu).
Nhà Ðường suy tàn để nước Trung Hoa hỗn loạn với thời kỳ Ngũ Ðại và Hoàng Hạc
Lâu cũng bị tàn phá vì chiến tranh và thời gian. Thế nhưng “Hoàng Hạc Lâu” đã
là một nét văn hóa, một cái điều gì đó mà người đời sau cảm thấy không thể
thiếu được khi nhắc đến Hán Dương, Giang Hạ. Chẳng vì thế, khi nhà Tống thống
nhất Trung Hoa thì Hoàng Hạc Lâu lại được kiến trúc lại, nhưng theo phong thái
đời Tống. Thế nhưng sau khi nhà Tống sụp đổ thì Hoàng Hạc Lâu một lần nữa lại
bị phá hủy.
Nhà Nguyên Mông Cổ chiếm trọn và cai trị Trung Hoa gần 100 năm. Chu Nguyên
Chương khởi nghĩa thu phục Trung Hoa trở lại cho Hán tộc, lập ra triều đại nhà
Minh kéo dài gần 300 năm. Rồi thì nhà Minh suy tàn để nhà Thanh thay thế và cũng
trị vì gần 300 năm. Bốn Mùa Xuân Hạ Thu Đông luân phiên thay nhau có cả hơn
ngàn lần, Hoàng Hạc Lâu tan nát vì chiến tranh và hỏa hoạn tất cả 12 lần và cả
12 lần đều được cho xây dựng kiến thiết lại (không kể các lần trùng tu) cho dù
dưới bất cứ triều đại nào, vua nào. Vì thế, Hoàng Hạc Lâu có hơn 12 kiểu kiến
trúc khác nhau, từ một tháp quan sát thời Ðông Ngô trở thành Hoàng Hạc Lâu đời
Ðường, Hoàng Hạc Lâu đời Tống, đời Minh, đời Thanh, cho đến bây giờ thời Cộng
Sản. Thế mới biết có những điểm văn hóa người ta muốn quên cũng không quên
được, muốn dẹp bỏ đi cũng không dẹp bỏ được.
Từ năm 1957, dân Vũ Hán đã có chương trình phục hồi lại Hoàng Hạc Lâu nhưng mãi
cho đến năm 1985 thì Hoàng Hạc Lâu hiện đại mới được hoàn thành. “Lầu” bây giờ
cao hơn 50 mét, có năm tầng lầu và được xây lại theo vóc dáng Lầu cũ của đời
nhà Thanh Ðồng Trị. Ðể tránh rủi ro về hỏa hoạn, sườn của Lầu mới được xây bằng
sắt thép và xi măng chứ không còn bằng gỗ như ngày xưa nữa.
Ðứng ở trên tầng cao nhất của Hoàng Hạc Lâu, người ta có thể ngắm cảnh trời
sông bao la bát ngát, của hai sông Trường Giang và Hán Thủy. Phong cảnh quả là
hữu tình! Bước qua ranh giới của hai chữ quốc gia, văn hóa Trung Hoa quả thực
cho người ta nhiều cảm khái về suy tư, về tâm hồn thi vị. Không có được cái cảm
khái đó thì có lẽ Tản Ðà chúng ta đã không dịch ra được một bài thơ tuyệt hảo
về Hoàng Hạc Lâu.
Tản Ðà không những vẫn giữ nguyên được cái ý nghĩa nguyên thủy Hoàng Hạc Lâu
của Thôi Hiệu mà còn vượt qua nổi cái thâm trầm ngôn ngữ của nguyên tác để đưa
vào lòng người đọc thơ những điều nhẹ nhàng tinh túy nhất của ngôn ngữ Việt Nam
(giảng luận về Tản Ðà Nguyễn Khắc Hiếu của Bùi Giáng).
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu” nghĩa là “Quê
hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.”
Vũ Hán là tên ghép của Vũ Xương – Hán Thủy có một thời văn hóa lộng lẫy như
thế!
Ngày nay “văn hóa Cộng Sản” thay thế, từ nghèo-đói tiến đến bần-cố-nông cộng
với sự cao ngạo trong lãnh vực Đông y, Trung Cộng phát triển ra một thứ văn hóa
ẩm thực quái gỡ, người ta ăn tất cả mọi loài thú vật, động vật, côn trùng thảo
mộc để ngày nay phát triển ra dịch bệnh Corona ngay tại Vũ Hán. Tất cả chỉ vì
đồng tiền và quyền lực, giấu giếm đi sự an toàn sinh mạng của người dân Vũ Hán
nói riêng.
Cơn dịch bệnh đang vô hình trung nhốt người dân Vũ Hán “ở trong một trại tập
trung khổng lồ nhất thế giới qua bao thế kỷ.” Hỡi tiên ông Phí Vĩ, liệu Hạc
Vàng của ông có đem thuốc tiên xuống cứu dân Vũ Hán được không?
Trần Nguyên Thắng
304Đen -
llttm
No comments:
Post a Comment