Cây cầu tuổi dại
Cơm nước
xong, thì không khí nhộn nhịp ban đầu bắt đầu hạ xuống. Nắng tháng ba chụp lên
trên mấy tấm tăng cũ, làm bốc lên một mùi ngai ngái pha lẫn đất sét, thuốc súng
và nước tiểu. Viên sĩ quan an ninh thấy chúng tôi có vẻ lờ đờ bèn đề nghị:
– Hay chúng
ta ra cầu chơi đi. Đằng nào cũng phải chờ đến bốn giờ chiều mới có xe lên đón.
Tôi đưa mắt
hỏi ý kiến mấy em học sinh. Chúng nó lạnh nhạt, lờ lững. Viên sĩ quan tìm cái
gì hấp dẫn hơn:
– Ra ngoài
bờ sông tôi cho các cậu bắn cá.
Cả bọn học
trò đang ngồi bơ thờ trên bãi cỏ, vùng choàng dậy. Như một phép lạ. Chúng chạy
ùa lại vây quanh ông đại úy. Viên sĩ quan gọi người lính đứng ở gần cửa hầm:
– Thảng, đem
cái M.60 ra cầu đi.
Bọn học trò
bỏ chúng tôi chạy theo anh Thảng. Một cậu không thể chịu đựng được bộ đi chậm
chạp của người lính, đề nghị vác súng thay cho anh ta. Thảng chỉ chờ có thế,
nhưng cứ giả vờ quay lại phía đại úy tỏ vẻ phân trần. Viên sĩ quan hỏi lấy lệ:
– Đã khóa an
toàn chưa?
– Dạ rồi,
đại úy.
– Đi nhanh
ra đó tìm chỗ đặt súng đi.
– Bảo thằng
Lý xách thùng đạn ra. Cẩn thận nghe không. Cho các em nó bắn chỗ nước xoáy có
nhiều cá.
– Thưa chỗ
mương hay chỗ khúc quành, đại úy?
– Chỗ hôm
trước đó.
Người lính
lo chạy đi làm nhiệm vụ. Chỉ còn có tôi với viên sĩ quan lững thững đi sau. Ông
ta trầm ngâm, ít nói. Suốt buổi sáng ngồi gần bên đại úy để xem các em học sinh
trình diễn văn nghệ dã chiến cho các chiến sĩ tiền đồn, chỉ có thiếu tá tiểu
đoàn trưởng là bặt thiệp mau mắn. Còn đại úy thì chỉ chống tay vào má mặt
nghiêm nghị suốt buổi. Gặp vài tiết mục vui, ông ta quay sang phía tôi, khẽ gật
đầu tỏ dấu cảm ơn. Tôi cố gắng giải thích cho ông ta hiểu vì vội quá, các em
không có thời giờ dượt nhiều. Nếu có điều gì sơ suất, xin quí vị niệm tình tha
thứ. Tôi đã nói như vậy trước khi các em ra trình diễn, và tôi cứ nhắc đi nhắc
lại cái ý ấy mỗi lần đại úy quay nhìn tôi mỉm cười. Ông ta pha bình thẳng thắn,
không kiểu cách:
– Đã đành
không bằng mấy ca sĩ nhà nghề nhưng các em nó còn giữ được sự hồn nhiên. Tôi
cho sự cuống quýt, ngập ngừng cũng là nghệ thuật.
Chính câu
nói ấy đã khiến tự nhiên tôi có cảm tình với ông ta. Giữa hai chúng tôi, dường
như có một sợi dây ràng buộc nhau, mọi sự thông cảm mặc nhiên cho nên tuy chưa
quen biết, chúng tôi vẫn xưng hô anh tôi một cách thân mật. Chúng tôi không có
nỗi khổ sở moi óc tìm một câu nói kiểu cách hợp thời để làm vừa lòng người đối
diện. Nếu thích, thì nói. Không thích, thì cứ yên lặng bước đi bên nhau, như
lúc này. Viên sĩ quan đi quành để tránh một vũng lầy. Tôi lười biếng lấy đà
nhảy đại qua, một cách liều lĩnh. May mà tôi vượt qua khỏi. Gót giầy chỉ chạm
nhẹ vào mép đất nhão.
Đại úy nhận
xét:
– Anh nhà
giáo mà cũng thể thao ra phết.
Tôi cười,
bịa đặt một lối giải thích:
– Khi còn đi
học, tôi là vô địch môn nhảy xa.
Đại úy trả
lời thong thả, trầm tĩnh đến nỗi tôi không thể biết ông ta nói thật hay nói
bịa:
– Tôi cũng
vậy. Nhưng bị cho nhảy nhiều quá, bây giờ đâm chán. Chỉ thích ở một chỗ. Anh
biết tôi ở đây mấy năm không?
Tôi không
thể đoán được, cứ đáp đại:
– Năm năm.
Viên sĩ quan
cười:
– Không bao
giờ trong đời lính một người lại ở lâu đến như vậy. Nhất là lính tác chiến. Quá
lắm là hai năm. Tôi ở đây hai năm bốn tháng hai mươi sáu ngày.
– Anh tính
từng ngày vậy, tức là đã sống trong chán nản. Tính kỹ xem còn bao lâu nữa thì
hết nợ. Còn bao lâu nữa thì phủi tay mà đi. Sao anh không xin đổi đi?
Viên đại úy
nhìn tôi đăm đăm. Một lúc lâu, ông mới nói:
– Nhiều lý
do lắm. Có cái mù mờ, có cái rõ rệt. Có cái tưởng là rõ rệt, thật ra chỉ là mập
mờ đánh lận con đen. Có cái mập mờ không nói ra, nhưng tự mình biết đó là lý do
chính đáng, quan trọng nhất.
Tôi cười
bông đùa:
– Anh nói mà
như làm thơ. Thứ thơ siêu thực, lập thể.
Viên đại úy
cũng cười theo:
– Để tôi
giải thích: Lý do rõ rệt mà giả dối ư? Nói nghe hách lắm. Tôi là người vô cùng
cần thiết ở đây. Mấy năm trước, không tiểu đoàn nào chịu nổi áp lực địch khi
đóng ở đầu cầu này. Khi thì bị pháo thiệt hại nặng. Khi thì bị phục kích. Cho
đến lúc tiểu đoàn chúng tôi đến đây. Thiếu tá lo chuyện lớn, ngoài sáng. Tôi lo
chuyện nhỏ, trong tối. Chúng tôi ăn rơ với nhau. Lại rất hợp thủy thổ nên sư
đoàn không cho chúng tôi đi đâu nữa hết. Mỗi lần chúng tôi khiếu nại, họ bảo:
các anh đi là cây cầu sập. Do đó mới ở lâu như vậy. Những hai năm bốn tháng hai
mươi bảy ngày.
Tôi chữa:
– Hai năm
bốn tháng hai mươi sáu ngày.
Viên đại úy
nói, không cười:
– Bây giờ
sang ngày thứ hai mươi bảy rồi. Vì đã 12 giờ 15 trưa.
Tôi bật
cười, cho anh chàng sĩ quan này có một lối tếu tỉnh bơ hiếm có. Tôi hỏi tiếp:
– Anh bảo lo
chuyện nhỏ, trong tối. Chuyện gì vậy?
– Đó là kế
hoạch chống du kích của chúng tôi. Anh thấy đấy, vùng này là một vùng đồng bằng
phì nhiêu, lại rất xa núi non. Thế mà du kích địch hoạt động mạnh không thể tả.
Lý do chính là họ đã được dân chúng che giấu, tiếp tế lương thực đều đều. Cũng
là bà con quen thuộc với nhau hết, nên thói thường không ai nỡ đi tố cáo. Do
đó, địch cứ hoạt động dài dài. Chúng tôi điên đầu không biết phải làm sao. Về
sau, chúng tôi dùng kế hoạch hỏa mù. Đêm đêm, chúng tôi cho lính mặc áo đen
mang AK giả Việt cộng vào các làng xin tiếp tế. Sáng hôm sau, chính những người
lính đêm trước, đến từng nhà chỉ từng người ủng hộ Việt cộng, bắt đưa lên nhốt
trên quận. Cứ làm mãi như vậy một tháng, hai tháng, ban đêm dân chúng không thể
nào phân biệt được đâu là du kích thực, đâu là du kích giả. Mọi người sống
thường xuyên trong trạng thái hoài nghi, không biết ai là bạn ai là thù. Cho
đến lúc anh Việt cộng thực bảy mươi hai phần dầu về làng, gọi cửa ông bà chú
bác xin gạo, dân làng cũng nhất định cài then không mở. Du kích đói, phải về
rừng. Dân làng nghi kỵ nhau, nên an ninh lắng dịu.
Tôi thích
thú khen:
– Thật là
diệu kế. Mà muốn thực hiện được kế hoạch đó, lính của anh phải thuộc hạng chì
lắm. Nhưng nếu chỉ có vậy thì có gì mập mờ đánh lận con đen đâu?
– Tôi nói
quá đi một chút cho vui. Ý tôi muốn nói điều chúng tôi đã làm không có gì đáng
hãnh diện. Dùng mãi lối hỏa mù, tôi đâm ra hoang mang. Cái gì cũng thành mờ mờ
ảo ảo hết. Nhiều bữa lính đi kích đêm trở về vào trình diện tôi giật mình chụp
súng định bóp cò. Rồi chắc sẽ có lúc mình thản nhiên ngồi chờ anh ta báo cáo,
thì lại nhận trọn một băng K.54 vào đầu. Cho nên đôi lúc tôi chán nản, muốn đổi
đi bất cứ đâu. Nhưng cây cầu, dòng sông giữ chặt tôi lại. Đó mới là lý do thực
sự.
Đại úy đột
ngột dừng lại, bỏ hẳn cái giọng ngậm ngùi, lơ lửng, hỏi tôi:
– Anh đoán
thử xem tôi người miền nào?
Tôi ngập
ngừng, cố kéo dài thì giờ hoãn binh, trước khi phỏng đoán:
– Cái giọng
của anh?… cái giọng của anh không thuần. Hơi pha pha. Một chút Sài Gòn, một
chút Quảng Nam. Một chút… một chút… Không có gì rõ rệt hết. Chắc anh người Nha
Trang thì phải.
– Không. Tôi
người Huế.
– Thật
không?
– Thật mà.
Viên sĩ quan
đổi giọng, nói tiếng Huế thuần túy:
– Tôi ghét
cái không khí u ám chật hẹp của Huế nên bỏ quê mà đi. Biền biệt mười năm không
về nữa. Một phần cũng vì chuyện nhà không vui nên dứt khoát không hối tiếc.
Nhưng mà lạ lắm. Đôi khi vô tình gặp một người đồng hương, lòng tôi nao nao
bâng khuâng. Hoặc ở đây chiều chiều đứng trên cầu này nhìn xuống mặt sông mù
sương, tôi nhớ khúc quành sông Hương nhìn từ chùa Thiên Mụ da diết. Bây giờ
trời còn chói chang, anh chưa thấy gì. Nhưng khi mặt trời sắp lặn, đứng chỗ đầu
cầu nhìn dài theo con sông sương mù anh sẽ thấy… anh sẽ thấy…
***
Lúc ấy súng
bắt đầu nổ ở chỗ bờ sông có nhiều lau lách nên tiếng nói của viên sĩ quan mất
hút. Bọn học trò reo mừng, giành nhau bắn thử. Tôi cũng nôn nao muốn bỏ con
đường cao xuống góp vui với bọn trẻ, nhưng thấy viên đại úy có vẻ trầm ngâm,
nên lại thôi. Anh ta không nói gì chỉ đứng vuốt ve thành cầu xi măng loang lỗ.
Tôi nhìn về phía con sông uốn khúc, chỉ thấy hai bên bờ tre xanh và mặt nước
lấp lánh ánh nắng. Các loạt súng vẫn tiếp tục nổ, tiếng cười đùa.
Tiếng cười
đùa chen lẫn tiếng súng, nghe reo vui như ánh nắng nhảy múa đây đó. Tôi nói:
– Con sông
và cây cầu đẹp thật. Anh mê là phải.
Viên sĩ quan
nói nhỏ:
– Bây giờ
anh chưa thấy gì đâu. Thật tiếc. Anh phải về phố lúc bốn giờ chiều. Nếu anh ở
lại được đến xế, lúc mặt trời lặn sau khóm tre kia, lúc sương mù không biết từ
đâu bao phủ mặt sông này. Anh nhìn xuống mặt sông trắng nhìn theo mặt cầu xám,
nhìn lên…
Tôi đã biết
những gì viên sĩ quan sẽ nói nên tai chỉ lóng nghe bọn học trò tranh nhau bắn
trước hoặc lắng nghe tiếng súng sắp nổ. Nhưng mãi một lúc, súng vẫn chưa nổ, mà
viên đại úy lại không nói gì. Tôi ngạc nhiên quay lại, thấy anh nhìn về phía
bên kia cầu, nét mặt lo lắng, thắc mắc. Hai thanh niên mặc quần áo đen mang dép
cao su dẫn một ông già quần áo rách rưới bạc màu từ bờ bên kia băng qua cầu,
tiến về phía viên sĩ quan. Khi họ đến giữa cầu, đại úy bảo tôi:
– Kết quả
của chiến thuật hỏa mù đây. Anh theo tôi về trại, xem tôi thẩm vấn lão già này
cho vui.
Chúng tôi
quày quả trở về căn cứ. Phòng an ninh của đại úy khá rộng. Hai cái bàn thấp
đóng bằng gỗ tạp có vẻ lẻ loi trong khung cảnh lạnh lẽo. Đại úy chỉ một cái ghế
bằng thùng đạn biến chế cho tôi ngồi, rồi đến ngồi trang nghiêm chỗ bàn giấy.
Nét mặt anh ta thản nhiên, nghiêm nghị quá đáng. Chúng tôi không phải chờ lâu.
Hai người lính mặc áo đen gõ cửa, rồi dẫn ông già vào. Viên sĩ quan hỏi người
lính đi bên trái:
– Vụ gì đây
Bích?
Người lính
đẩy ông già trước bàn đại úy, húng hắng mãi chưa dằn được xúc động để trình
bày. Đại úy hỏi lần nữa:
– Chuyện gì
bình tĩnh thuật tôi nghe coi.
Người lính
tên Bích nói:
– Hai đứa em
chờ khuya bắn chóc chóc vài phát, rồi đến gõ cửa từng nhà ở xóm Gò thu gạo.
– Không ai
dám mở hết. Đến nhà lão này, thấy mặt chúng tôi ông già mừng rỡ mời vào nhà hỏi
hết chuyện này đến chuyện khác. Đại úy hỏi:
– Chuyện gì?
– Lão hỏi
lâu nay mạnh khoẻ? Lão hỏi bây giờ có còn thích chèo ghe không? Lão hỏi có còn
nhớ hồi bác với cháu chở lúa xuống Đập Đá qua cầu Phụng Ngọc nhằm lúc trăng lên
đẹp lắm nhưng nước cạn ở giữa sông nên phải chèo nem nép theo bóng tre tối hay
không?
– Sáng nay
trở lại ông lão nói gì?
Người lính
đi với Bích nhanh nhẩu cướp lời bạn:
– Lão hơi
ngợ một chút. Chắc lão sợ hoặc lão ngạc nhiên không hiểu vì sao lính du kích
lại thản nhiên đi khơi khơi giữa ban ngày với ông ấp trưởng. Nhưng khi thằng
Bích vô nhà, lão cũng mừng rỡ vồ vập xưng bác bác cháu cháu như hồi hôm.
Viên đại úy
cho là đã biết đủ, quay sang hỏi ông lão:
– Ông tiếp
tế cho Việt cộng mấy lần rồi.
Giọng ông
lão khao khao run run:
– Dạ ông xét
lại, tôi có tiếp tế hồi nào đâu.
– Ông đừng
có chối. Mà ông có biết tiếp tế là hại làng hại xóm hay không?
– Dạ không
biết. Tôi có biết tiếp tế là cái gì đâu.
– Tiếp tế là
chở gạo chở lúa, đem muối đem mì cho Việt cộng. Đừng giả bộ ngu ngơ. Ông chở
lúa tiếp tế mấy lần?
Ông lão vẫn
khăng khăng chối:
– Hồi giờ
tôi có chở lúa cho Việt cộng lần nào đâu. Oan ức cho tôi lắm.
Giọng viên
sĩ quan pha lẫn bực dọc, tức giận:
– Chính ông
hỏi anh này có nhớ lần chở lúa dọc theo bờ tre tối gần cầu Phụng Ngọc hay
không. Trời sáng trăng mà cứ tìm chỗ tối mà đi, không phải lén lút tiếp tế cho
địch thì còn làm gì nữa?
Ông già quay
lại nhìn Bích một lúc, đôi mắt nhấp nháy, phân vân. Đại úy hỏi:
– Ông có
quen với anh này không?
Ông lão đáp
gọn:
– Có.
– Tại sao
quen?
Giọng ông
lão kể lể:
– Trong xóm
trong làng với nhau, chuyện gì ở đâu mà không biết. Tôi già nhưng hay thương
con nít. Lũ trẻ thường quấn quýt quanh tôi hoài.
Lão già liếc
nhìn Bích e ngại một chút, rồi tiếp:
– Thằng nhỏ
này hồi trước thích ra tắm sông lắm. Tôi có cái ghe nhỏ chở lúa. Lần nào nó
cũng lén nhà theo phụ với tôi cả. Kể như vậy cũng đỡ, vì gặp chỗ sông cạn tôi ở
trước kéo, nó ở sau đẩy.
Viên sĩ quan
giả vờ vô tình hỏi khéo:
– Phải hai
người thì chắc chở nhiều lắm. Mỗi lần tiếp tế cho họ mấy ký?
Ông lão ngớ
ngẩn:
– Dạ tiếp tế
cái gì?
– Tôi hỏi
mỗi lần như vậy chở được bao nhiêu ký lúa?
Ông lão suy
nghĩ đắn đo trước khi đáp:
– Tôi không
biết mấy ký. Chở được bốn bao, mỗi bao hai vuông.
– Chở đến
giao cho ai, ở đâu?
– Ai mướn
thì chở, khi chỗ này khi chỗ khác không nhất định.
– Còn nhớ
mặt người mướn không?
– Lâu quá
làm sao nhớ. Lâu lâu đi một chuyến cho vui chứ tôi đâu có sống chuyên nghề chở
mướn.
– Mỗi lần
chở lúa tiếp tế như vậy, ông đi ngã nào?
– Từ bến đò
trên xóm xuống chỗ khúc quanh này, qua cầu, rồi xuống ngã phía đông.
Viên sĩ quan
giật mình, không tin ở tai mình.
– Có qua cầu
nữa à?
– Dạ có. Đi
ngã kia cũng được, nhưng tại thằng nhỏ thích chui xuống dưới gầm cầu. Đến chân
cầu, nó neo ghe lại nhìn lên. Nó chờ cho tới lúc có một chiếc xe qua cầu, nghe
tiếng cây cầu rùng mình rền rền, nó cười, rồi mới chịu chèo ghe đi tiếp.
Vẻ mặt đại
úy hoang mang, tư lự. Ông ôm trán nghĩ ngợi một lúc. Căn phòng hoàn toàn yên
lặng. Không ai nói với ai lời nào, chờ đợi cái gì mông lung mơ hồ sắp đến,
trong chớp mắt, trong gang tấc. Đại úy ngửng lên hỏi:
– Thằng du
kích nào gan dữ. Mai, tụi bay canh cầu cái gì lạ vậy. Nó ở dưới gầm cầu cười
vào mũi tụi bay mà không ai biết.
Rồi quay lại
phía ông, đại úy hỏi tiếp:
– Thằng nhỏ
không sợ hay sao mà thích chèo qua cầu?
Ông lão ngơ
ngác hỏi lại:
– Thằng nhỏ
nào?
– Thằng nhỏ
cùng đi chở lúa tiếp tế với ông đó.
– À, thằng
Cu. Nó bảo nó thích nhìn cây cầu cho gần. Nó bảo hồi nhỏ tắm sông thấy cây cầu
đồ sộ, bây giờ lớn lên thấy nó nhỏ xíu. Chỉ khi nào chèo ghe đứng ngay dưới gầm
cầu mới thấy nó lớn hơn, lớn y như hồi nhỏ.
Viên sĩ quan
nhìn Bích, định nói gì nhưng ngập ngừng một lúc, lại thôi.
Cuối cùng,
đại úy hỏi ông lão:
– Ông có
biết chở lúa tiếp tế như vậy là có tội không?
Ông lão ngớ
ngẩn:
– Dạ chở lúa
mướn cho người ta lấy tiền, sao lại có tội?
Đại úy liếc
nhìn Bích một lần nữa, lần này tia mắt mang đầy ác cảm. Bích lơ đãng xoa xoa
bàn tay vào nòng khẩu AK. Kẹp giữa hai chân, mắt nhìn lên trần tôn. Đại úy ra
lệnh:
– Thôi được.
Mai ơi, dẫn ông già ra phòng giam. Còn Bích ở lại đây với tôi.
Chờ cho
người lính tên Mai dẫn ông lão đi khỏi, viên sĩ quan mới hỏi Bích:
– Anh có
quen với ông già đó à?
Bích ngạc
nhiên không dám tin ở tai mình, nên không trả lời. Đại úy vẫn giữ cái giọng
bình tĩnh cũ:
– Ông già đó
nói biết rõ anh từ thuở bé. Ông ta còn bảo có cùng chở lúa qua cầu với anh nữa.
Có thật thế không?
Bích nhìn
thẳng vào người chỉ huy, lời nói ấp úng vì thiếu sự cương quyết:
– Đại úy hỏi
thật hay hỏi chơi?
Viên sĩ quan
an ninh bắt đầu mất bình tĩnh:
– Anh có
thấy tôi đùa giỡn ở phòng làm việc này bao giờ chưa?
– Nhưng đại
úy cũng rõ là lão già nói láo để gỡ tội. Mắt lão nhấp nhem, nhìn quần áo tôi
tưởng là du kích. Đến lúc biết mình hớ, lão bèn nhận đại là có quen tôi để
thoát nạn. Lão giả bộ ngớ ngẩn. Nhưng đại úy đừng lầm. Lão ranh khôn lắm. Lão…
Đại úy cắt
lời người lính:
– Vâng, lão
khai có chở lúa tiếp tế qua ngã sông. Lão khai lúc qua cầu, anh đòi dừng ghe
lại để chờ nghe tiếng cầu rền. Chắc anh nghĩ bọn lính gác cầu toàn là bồ bịch
người nhà cả mà. Sợ gì.
Sự tức giận
làm cho người lính nghẹn lời. Mặt anh ta đỏ bừng. Hai bàn tay nắm chặt lấy nòng
súng. Một lúc sau, người lính mới nhìn thẳng tới trước hỏi:
– Đại úy
nghi tôi là du kích phải không?
– Tôi không
nghi. Nhưng lão già cứ khai vanh vách là chính anh đã giúp đỡ cho lão chở lúa
qua khỏi cầu. Lão khai rành mạch từ lời nói, cử chỉ, ý thích của anh. Chắc anh
đã nghe rõ. Anh trả lời thế nào với lão ta?
– Nhưng làm
cách nào chèo ghe qua được gầm cầu? Chỗ nào cũng có lưới thép gai giăng dày từ
trên xuống dưới. Tối tối đèn pha rọi sáng quắc. Con kiến chui qua cũng không
lọt.
– Nhưng con
người chui qua lại lọt. Dây thép gai không rào kín hết cả mặt sông. Năm trước,
để ngăn ngừa phá hoại, tôi có cho làm hàng rào kín hai bên hông cầu. Nhưng về
sau rác rến, lục bình tấp nhiều quá, cây cối mọc um tùm càng dễ cho bọn phá
hoại ẩn núp, nên tôi mới cho dỡ đi. Chỉ còn màng lưới kẽm gai quanh chân cầu mà
thôi. Ghe thuyền có thể lách qua cầu dễ dàng, nếu lính gác cũng là một tên nội
tuyến như người chèo ghe tiếp tế.
Người lính
đứng trân giữa phòng, như chết đứng trước một sự thật bất ngờ.
Anh ta thì
thào:
– Đại úy tin
lời ông già sao đại úy?
Giọng viên
sĩ quan gay gắt, như những vết dao chém ngọt lên thân Bích:
– Thật hay
không, trước hết anh hãy tự trả lời. Anh nhớ lại đi. Có lần anh nói với tôi
rằng có một thời gia đình anh ở đây. Khoảng 1957, 1958 gì đó. Bấy giờ vùng này
còn an ninh. Anh tắm chỗ ngả ba sông nhìn về phía cầu thấy nó đồ sộ, cao ngất.
Bây giờ sau bao năm làm ăn, rồi đi lính nơi quê người, về trở lại đây, thấy cây
cầu nhỏ xíu đến tội nghiệp. Anh cũng đã nói thế với ông già. Thật hay không,
anh hãy tự vấn đi. Hãy nhìn lại mình trước khi hỏi tôi.
Người lính
ngơ ngác hết nhìn đại úy lại quay sang nhìn tôi, đôi mắt hốt hoảng cầu khẩn.
Viên sĩ quan cúi đầu nhìn chăm chăm vào cuốn sổ trước mặt không ngẩng lên. Bích
quay về nhìn chính mình. Nhìn bộ quần áo đen đang mặc. Nhìn khẩu súng cục mịch
có băng đạn cong trước mình. Nhìn đôi dép cao su lốp xe còn dính bùn dưới chân.
Đã ăn mặc vậy. Đã mang khẩu súng đó. Đã nói thế này với đại úy. Lại nói y như
vậy với ông già. Sao chính mình làm những việc nguy hiểm động trời mà không hay
biết? Ta là ai? Sao ở đây? Họ đang làm gì và sẽ làm gì mình. Bích thì thào:
– Mình chở
lúa hồi nào, bao nhiêu lần sao mình không nhớ?
Viên sĩ quan
đứng bật dậy:
– À, bây giờ
anh mới chịu thú tội. Anh làm bộ ngu ngơ, nhưng không qua mặt được tôi đâu. Anh
nhận bao nhiêu tiền để vào đây đi nước đôi. Phải giam anh lại, đưa về sư đoàn
khai thác.
Bích giật
mình bước vội về phía trước, cây AK ngã xuống nền xi măng, tiếng động khô và
chói. Người lính gần như ngã khuỵu xuống nền nhà, miệng van lơn không ngớt:
– Đại úy xét
lại. Em xin thề trên có trời dưới có đất, em có làm nội tuyến lần nào đâu. Đại
úy xét lại. Đại úy cho em gặp lão già hỏi cho ra lẽ.
Viên sĩ quan
đứng lùi sát vách tường, hình như để thủ thế. Nghe người lính nói vậy, ông gật
gù:
– Thôi được.
Cho hai người đối chất với nhau xem ai thật ai dối. Anh bảo Mai dẫn lão già trở
vô đây.
***
Lão già vừa
vào, Bích đã định chồm lên quát hỏi cho ra lẽ. Đoán được ý định của người lính,
đại úy an ninh ngăn lại:
– Anh đứng
yên đó. Chỉ có tôi mới được quyền thẩm vấn.
Người lính
đành đứng yên, dáng điệu nóng nảy, ray rứt. Ông lão thì ngơ ngác không hiểu vì
sao người ta dẫn mình trở lại, đôi mắt mấp máy chưa quen ánh sáng nhìn người nọ
sang người kia. Viên sĩ quan bắt đầu hỏi:
– Ông nghe
tôi cho rõ, và trả lời cho gọn.
Đại úy chỉ
vào Bích rồi hỏi ông già:
– Ông nhìn
kỹ người này lần nữa đi. Ông có quen với người này không?
Ông lão cố
nhíu mày để nhìn kỹ Bích, rồi trả lời:
– Dạ có
biết.
– Biết từ
lúc nào?
– Từ lúc cha
mẹ nó mới lấy nhau, cũng là hạng con cháu trong làng mà.
Cả tôi lẫn
đại úy đều cố nghiêm trang, vì chưa biết câu trả lời của ông lão do vô tình hay
do sự ranh mãnh khôi hài. Còn Bích thì trố mắt nhìn ông già một cách khinh bỉ,
thách thức. Viên đại úy hỏi tiếp:
– Hồi trước
cha mẹ anh này làm gì?
– Làm gì hả?
Cha nó hớt tóc trên đường cái quan. Con vợ làm thuê.
Bộ dạng Bích
nóng nảy, hốt hoảng hơn. Đại úy định đưa tay ngăn, nhưng người lính tức giận
sấn đến gần ông lão quát:
– Sao ông
biết cha tôi làm nghề hớt tóc?
Viên sĩ quan
à lên một tiếng vui mừng:
– Như vậy là
đúng thêm một yếu tố nữa. Ông nghe tôi hỏi tiếp. Có phải ông đã cùng với anh
này dùng ghe chở lúa lòn qua cầu không?
– Phải. Nó
theo tôi để đẩy ghe giùm tôi, khi mắc cạn.
– Anh này
đòi chèo qua phía cầu cho bằng được, phải không?
– Phải. Nó
bảo chờ thử lúc xe qua, tiếng cầu có rền không.
– Rồi ông
thấy thế nào? Có dám neo ghe lại thật lâu chờ xe qua không?
Ông lão
nghiêng đầu cố moi trí nhớ, một lúc mới đáp:
– Có thú vị
gì đâu, nhưng nó đòi thì phải theo. Mà đâu phải chờ ít. Nhiều khi lâu cả tiếng
đồng hồ. Chờ nóng cả ruột, để chỉ nghe mấy tiếng lóc cóc lóc cóc của vó ngựa.
Tất cả mọi
người trong phòng đều ngơ ngẩn, không hiểu ông già nói gì. Cả Bích cũng quên lo
lắng, tò mò nhìn ông lão như một người từ cung trăng xuống.
Đại úy hỏi:
– Sao lại có
tiếng vó ngựa lóc cóc.
– Thì xe
ngựa chở người đi chợ phiên An Thái mà.
Bích không
dằn được nữa, nói lớn:
– Thời bây
giờ có ai dùng xe ngựa nữa đâu. Cái ông già này.
Viên sĩ quan
với đôi tai nhà nghề đoán được có điều gì trục trặc nơi đây. Đại úy hỏi:
– Không phải
xe GMC. Nhà binh à?
Ông lão
cười:
– Thời đó
làm gì có xe hơi. Xe ngựa chưa có mà đi nữa là. Ông Ba cha thằng Nhánh đây
ngoài nghề hớt tóc, còn bán cỏ cho ngựa kéo xe nữa. Hồi đó ông mới có một đứa
con, lại kiếm được tiền, cưng chìu thằng Cu này phủ phê. Sau đông con quá càng
ngày càng nợ nần, phải bỏ xứ đi trốn.
Ông lão còn
định kể dài dòng nữa, nhưng đại úy đã ngăn lại:
– Thôi đủ
rồi. Ông vừa bảo thằng Cu con ông Ba hớt tóc tên gì?
– Ai cũng
kêu nó là Cu Nhánh.
– Sao lạ
vậy?
– Có gì là
lạ. Bàn tay trái nó có sáu ngón.
Viên đại úy
vò đầu bực dọc, thấy tất cả suy luận của mình sụp đổ. Bích không có bàn tay sáu
ngón đặc biệt như Cu Nhánh. Lại thêm ông lão kể một chuyện xưa, thật xưa, từ
lúc vó ngựa lóc cóc còn vang đều trên con đường đá chạy ngang qua cầu, lúc chưa
có tự do và cách mạng, chưa có B.52 và hỏa tiễn.
Bực quá, đại
úy bảo Bích:
– Anh giơ
hai bàn tay cho ông già coi.
Rồi quay về
hướng ông lão:
– Ông nhìn
kỹ đi. Anh này không có bàn tay nào sáu ngón cả. Ông nhìn lầm anh lính của tôi
với anh Cu Nhánh xa xưa.
Ông lão nhìn
chăm chăm vào Bích một lúc, hết nhìn bàn tay lại nhìn gương mặt người lính. Ông
ngơ ngẩn, nói một mình:
– Sao nó
giống thằng Nhánh vậy.
Đại úy hỏi:
– Vậy thằng
Nhánh cũng mặc áo đen đi dép lốp xe như anh này phải không?
– Phải.
– Cũng cầm
khẩu súng có băng đạn cong y như thế này?
– Không. Ông
Ba hớt tóc bắt nó đi học, không cho đi theo ghe nữa. Sau ngày đình chiến, nó
theo nhà trường ra Bắc. Ông Ba ở lại một vài năm nữa mới mang công mắc nợ bỏ
làng trốn đi.
Một ý nghĩ
chợt đến trong trí tôi. Tôi không kịp suy tính, hỏi Bích:
– Gia đình
anh có thời ở vùng này, và hình như cha anh cũng làm nghề hớt tóc trước khi đi
làm ăn xa. Nhưng cho tôi hỏi thăm, anh có người anh lớn nào đi tập kết không?
Bích nhìn
tôi, rồi nhìn viên sĩ quan an ninh, nét mặt sợ hãi, không dám trả lời.
Tôi bị xúc
động quá, muốn nói với viên đại úy nhiều điều nhưng không biết nói gì. Đại úy
chắc cũng ở trong một trạng thái như tôi. Chúng tôi lặng lẽ đưa ông lão lên
cầu. Ai vỗ vào vai ông già nói đùa:
– Lần sau
nhớ nhìn cho rõ nghe bác.
Đại úy xin
lỗi:
– Chúng tôi
đã lầm. Xin cụ coi như không có gì xảy ra. Vâng, cụ được tự do rồi. Cụ có thể
thong thả ra về. Không việc gì đâu.
Ông lão ngập
ngừng một lúc, mới chậm rãi bước lên cầu. Đi được vài bước, ông quay nhìn lại,
rồi vội vã bước mau hơn. Tuy cùi chỏ hết bị cột quặt ra sau lưng, nhưng lưng
ông lão vẫn còng xuống. Chúng tôi buồn rầu nhìn hình ảnh tuổi già thất thểu qua
chiếc cầu hẹp, đi về phía bóng xế, chân nam chân xiêu tìm lấy sự sống.
Đại úy khẽ
nói với tôi:
– Đó cũng là
một sự mù sương. Thứ mù sương tôi vừa sợ sệt vừa nhắm mắt xông vào. Có lẽ vì
vậy tôi thường thích đứng ở đây, chiều chiều, ngắm một thứ mù sương khác, lãng
đãng nhẹ nhàng trên mặt nước phẳng. Mù sương trên sông chiều…
Nếu đoàn xe
dưới quận không lên rước học sinh thăm viếng tiền đồn về phố lúc ấy, có lẽ chúng
tôi còn đứng lặng ở đó lâu, lâu lắm…
Nguyễn Mộng Giác