CỐ đô kinh hoàng!
Mới sáng tinh sương
đã thấy quân Mặt Trận (Giải Phóng Miền Nam) hiện diện trong thành phố. Họ là những
người lo mặt chính trị trong cuộc chiếm cứ. Ngày hôm trước, họ vào sổ gần hết mọi
người, ghi tên, tuổi, phái tính. Họ quan tâm đặc biệt đối với phái nam, chia những
người này ra thành nhiều nhóm: công chức, những người có liên hệ với quân đội cộng
hòa, và những kẻ khác. Nhiều trường hợp họ ghi chú đầy đủ cả gia đình, cả tên
con cái nữa. Mỗi nhóm họ chỉ định một người đại diện, mang trách nhiệm mọi mặt
về tất cả thành viên trong nhóm. Nếu có người thoát thì người đại diện phải
lãnh đủ. Dân chúng được lệnh không tụ họp đông người, trừ khi được kêu đi dự
mít tinh, không được nghe đài, không được phao tin đồn đãi…
Ngày hôm sau, du kích và nằm vùng địa phương tỏa ra đi tìm những người có
tên trong danh sách viết tay nguệch ngoạc. Họ được đưa về Tiểu chủng viện, nơi
dựng tòa án nhân dân. Một anh cựu sinh viên chủ tọa phiên tòa với sự hiện diện
của một người Bắc Việt và hai sinh viên khác. Hai sinh viên này chúng tôi biết…
Các phiên tòa nhân dân mấy ngày trước đã chấm dứt. Dân chúng hiện diện khá đông tại
các phiên tòa ở Tiểu chủng viện, ở Gia Hội bên kia cầu và ở trong thành. Tòa án
ở Tiểu chủng viện do Hoàng Phủ Ngọc Tường chủ trì. Anh này tốt nghiệp đại học
Huế và là cựu lãnh tụ sinh viên trong Ủy Ban Phật Giáo chống chính quyền trước
đây. Cầm đầu ở Gia Hội là Nguyễn Ðắc Xuân, trước kia là một
liên lạc viên cộng sản nay đột nhiên lại xuất hiện. Tòa trong thành do hai sinh
viên Nguyễn Ðọc và Nguyễn Thị Ðoan điều khiển. Các phiên tòa vang lên những lời
đe dọa với khẩu hiệu tuyên truyền, kết tội, qui chụp. Hầu hết những người bị
lôi ra tòa chẳng biết lý do mình bị bắt. Nhưng tất cả đều bị kết tội, một số bị
tử hình tức khắc.
Sau hai ngày phiên tòa kết thúc, nhường chỗ cho những công tác khủng bố dân
chúng khác. Một người trộm mở nghe đài (radio) bị bắn giữa thanh thiên bạch
nhật để làm gương. Một anh sinh viên không tới dự lớp học tập cũng bị bắn công
khai. Nguyễn Ðọc bắn nhiều người trong đó có người bạn thân đồng lớp là Mu Ty,
chỉ vì bạn không chịu hợp tác với y. Bước vào ngày thứ hai bắt đầu kiểm soát
lương thực, thực phẩm.
Ngày thứ bốn, vì không tuân hành lệnh cách mạng, một gia đình bị xử. Người
chủ gia đình bị bắn tức khắc. Dưới áp lực khủng bố gia tăng nhiều người bỏ
trốn, nhưng ít kẻ thoát. Vùng Gia Hội có nhiều người thoát hơn nhờ ban đêm chèo
bè qua sông sang làng Ðập Ðá. Thường bị bắn theo nhưng cố chèo.
Những người nằm vùng xuất đầu lộ diện, ra tay truy lùng nạn nhân. Bộ đội
Bắc Việt và quân chính quy Mặt Trận lo chuyện quân sự và chiến lược. Nằm vùng
địa phương lo việc chính trị, hành chính, bình định, tuyên truyền, và tiêu diệt
kẻ thù. Ðám này bắt và giết người bất kể, nhiều khi chỉ vì hiềm thù cá nhân.
Cán bộ miền Bắc có mặt ở tòa án nhân dân xem ra ít nắm vững chuyện chính trị và
đóng vai trò ít quan trọng trong các bản án. Ðịa phương quyết định mọi chuyện.
Trước khi lên danh sách, thường đám nằm vùng đã quyết định bắt ai rồi. Chỉ còn
việc ra lệnh thanh toán những ai họ nhắm nữa mà thôi. Có lẽ họ lý luận rằng,
thà giết lầm hơn bỏ sót, vì bỏ sót thì sau này mình sẽ bị nhận diện. Một cách
hệ thống, công chức, quân nhân, sinh viên có tinh thần quốc gia, có khả năng
lãnh đạo và có thể gây trở ngại cho cách mạng, chính trị gia đối lập, tất thảy
đều được đoái hoài. Danh sách bất tận.
Dân chúng tập trung ở nhà thờ chính tòa được lệnh vào bên trong, không ai
được đứng bên ngoài. Phụ nữ và trẻ con được lệnh ngồi xuống. Ðàn ông và thiếu
niên từ 15 tuổi trở lên đứng. Ở bệnh viện, trò tương tự cũng đã diễn ra. Dân
quanh vùng, đặc biệt là vùng quanh căn cứ Mỹ, được lệnh tập trung vào bệnh viện
vì cộng sản sợ giao tranh có thể xảy ra ở đó. Dân lúc này còn sợ súng máy và
hỏa tiễn trực thăng hơn quân chiếm đóng nên ngoan ngoãn làm theo lệnh. Sau ba
ngày, đàn bà con nít được lệnh ngồi, đàn ông đứng dậy để hai tên nằm vùng nhận
diện, trước mặt hai cán bộ miền Bắc và hai bộ đội Mặt Trận. Hai người nằm vùng
này mới được xổ tù khi Việt cộng chiếm thành phố. Cả hai đều là thành viên kỳ
cựu của Mặt Trận. Một số người, trẻ có già có, được cấp thẻ và dẫn về nhà thờ
chính tòa.
Bên trong nhà thờ đàn ông và thiếu niên được lệnh sắp thành hàng rồi bước
ra ngoài với cán bộ hộ tống. Từ nhà thờ họ băng qua các đường Phủ Cam lên Chùa
Từ Ðàm. Bị giữ ở đấy một ngày rồi lại tiếp tục đi về phía Nam, hướng Nam Giao.
Ðàn bà trẻ con nhao lên nhưng được trấn an rằng cha, chồng, con họ phải ra phục
dịch bên ngoài thành. Một số bà đi theo xa xa, nhưng rồi bị chặn lại. Trong số
người ra đi có anh lính trẻ cộng hòa và Lương (nhân vật kể lại câu chuyện này)
Ngày kế tiếp, cuộc hành trình kéo dài suốt chiều tới tối, thoạt tiên rời Từ Ðàm
đi về hướng Nam rồi bẻ hướng Ðông Nam. Sáu cây số đường đi mà Lương nghĩ là một
cuộc trường chinh. Không ai nói với ai. Chỉ một lần yên lặng bị cắt đứt bởi một
câu hỏi của ai đó “Ta đi mô đây”. Có tiếng phụ họa “Lên núi hay tới chỗ chết?”.
Bộ đội Mặt Trận nói là họ được đưa đi học tập. Không ai biết mình đi đâu
nhưng tự thâm tâm nhiều người tin rằng có lẽ đời mình sắp kết thúc. Ông già đi
bên cạnh Lương bổng ngã quỵ. Cho tới lúc đó anh không biết có ông già đi bên
mình. “Bắt gió cho ông ta ” tiếng ai đó vang lên… Lương ôm lấy ông cho tới khi
người canh gác tới.
Mắt ông già hé mở trong chiều xẩm tối. Tiếng nói lạc giọng thều thào. “Xin
để tui đi, để tui ở lại đây”, ông van xin, bàn tay xương xẩu níu lấy cánh tay
người gác. “Tui không đi xa hơn được nữa”.
“Ðứng dậy “.
Ông già gượng dậy, cố thẳng người thêm được vài bước rồi lại ngã. Người gác
đoàn lúc này hết kiên nhẫn, đạp ông ra lề đường rồi bỏ đi. Vài phút sau, một
phát súng xé không khí cùng với một tiếng kêu yếu ớt vang lên. Làm thế để chắc
ăn, không ai chứng kiến. Xác ông được dập vào một hố gần đó, hai tù nhân được
lệnh lấp đất. Một tháng sau xác ông được đồng bào khám phá.
Vô vọng, đoàn người bước đi càng lúc càng chậm, câm lặng uất nén. Người gác
càng hối thúc. Rồi có tiếng hô “Dừng lại “. Lương thấy đám người phía trước
được lệnh bỏ túi xách xuống và ngồi xuống. Họ đã tới đích. Ðám canh gác phía
sau miệng hét thúc kẻ này đi nhanh, chân đá vào sườn kẻ khác… Sau này, Lương
nhớ lại mình đã đi qua thôn Tu Tay. Theo anh, chừng 18 người đã bị kêu lên phía
trước và bị quân Mặt Trận tố có tội ác với nhân dân. Các nạn nhân bị lôi đi
ngay. Chả ai biết gì về số phận họ vì chẳng bao giờ gặp lại họ nữa. Những người
khác được lệnh đi về phía lăng Ðồng Khánh.
Sau một giờ đi họ lại được lệnh dừng, chia thành hai nhóm nhỏ và bắt đầu
được lệnh đào hầm rãnh. Họ đào mồ cho lớp người tới sau, chứ chính họ thì chỉ
vài mạng phải nằm ở đây mà thôi. Như một ác mộng kinh hoàng thăm viếng địa cầu,
nhưng ác mộng không do quỷ ma nào cả mà do chính con người tạo ra.
Thoạt tiên, Lương nghĩ chắc mình sẽ không qua khỏi. Dù vậy, anh và người
lính trẻ vẫn cố tìm cách thoát thân, trong một hoàn cảnh có thể nói là tuyệt
vọng. Hai người thất thần nhìn nhau, mắt mở lớn. Chung quanh Lương, đám người
đói, lạnh, có kẻ đau, không ai dám quay về nhìn thành phố thân yêu đổ nát đang
chìm trong bóng tối sau lưng họ. Họ đào đã hai, ba tiếng, ai nấy im lặng gặm
nhấm suy nghĩ của mình. Hố đào là để trú ẩn và làm mương dẫn nước, người ta nói
thế. Một tiếng nổ kèm với tiếng la vang lên. Thần chết vây bủa không gian. Tại
sao mình ở đây? Ða số họ là công giáo, chả ai quan tâm tới chính trị, một số do
hoàn cảnh lịch sử phải bước vào lính như bao nhiêu thanh niên Việt Nam và trên
khắp thế giới đến tuổi khác.
Sau khi đào xong một hố rãnh, đám đông được lệnh đi tới một đụn cát để nghỉ
đêm. Vài người bị dẫn đi. Một số la thét lên vì sợ. Lương thấy người bạn ở cùng
phố mà anh quen từ mấy năm nay bật khóc nức nở. Một người hoảng lên chạy quẩn
để rồi bị bắt giữ lại. Lương hoảng hốt. Chân anh như điện giật. Anh nghĩ phải
liều ngay. Chung quanh cán bộ gác đầy dẫy, nhưng nếu lao vào được bóng tối thì
có cơ thoát. Ác mộng tiếp tục. Người la. Kẻ bị đánh. Người rú lên cười kinh
hoàng. Lương ở trong một đám khá đông đang bước đi. Ðám người khập khễnh lê lết
xuyên qua một đám cây rậm đi xuống đụn cát phía Nam. Khi họ xuống đồi, Lương
lách người lao vào bóng tối. Một viên đạn rít bên tai. Anh phóng qua đám rừng,
tai vẫn nghe tiếng đạn và tiếng la hét. Chỉ vài phút anh tới một con suối và
chạy theo dòng nước hướng về phía Ðông. Anh đi suốt đêm, thỉnh thoảng bị khuất
động bởi trái sáng thả từ máy bay và tiếng đại bác. Sáng ra thấy mình băng qua
một con đường sắt. Từ đó tiếp tục đi tới quốc lộ, lòng mong ngóng sớm thoát
được vùng tử địa. Xế chiều anh tới con đường phía Nam cách Phú Bài mấy dặm. Mải
tới ngày 16 tháng 2 Lương mới về lại được thành và kể cho chị Kim những gì đã
xảy ra…
Người ta đoán rằng đám nạn nhân từ Phú Cam tiếp tục đi nhiều ngày nữa về
hướng Nam, xuyên qua một vùng cây cối khó đi. Mải tới trung tuần tháng 9.69
người ta mới tìm thấy xác họ trong một con suối nhỏ, khe Ðá Mài, con suối chảy
ra khe Ðại đổ vào sông Hương… Trong số 428 bộ cốt tìm được ở đó, rất ít được nhận
diện. Vì không tìm thấy ở đâu khác, gia đình họ Nguyễn (thân nhân người lính
trẻ) tin rằng con mình đã chấm dứt cuộc đời nơi khe suối này…
Mồ tập thể được khám phá đầu tiên ở trường trung học quận Gia Hội, nằm bên
cạnh khu dân cư. Sở dĩ cư dân gần đó biết được là vì họ nghe tiếng súng và biết
ở đó có mở tòa án nhân dân. Một số người sau khi tham dự phiên tòa đầu tiên đã
liều trốn và may mắn thoát. Một số khác nhờ bơi qua sông. Trước ngôi trường có
tất cả 14 hố gồm 101 tử thi. Sau ba ngày tìm kiếm, người ta khám phá thêm một
số hố rải rác trước, sau và bên hông trường, nâng tổng số tử thi lên 203, gồm
xác thanh niên, người già và phụ nữ.
Trong số xác trẻ có 18 sinh viên. Một số trong bọn họ là những sinh viên đã
bỏ vô bưng theo Mặt Trận sau vụ đấu tranh chống chính quyền, nay trở về bắt các
sinh viên khác theo họ. Khi Mặt Trận chuẩn bị rút, các sinh viên được phép chọn
hoặc vô bưng hoặc ở lại thành. Kẻ chọn ở lại bị giết và chôn tại trường. Những
sinh viên khác của Gia Hội không theo Mặt Trận cũng chịu chung số phận. Có hố
vừa chôn được hai hoặc ba tuần; số còn lại rất mới. Những xác đầu tiên được
lính Thủy Quân Lục Chiến Cộng Hòa khám phá ngày 26.02.1968.
Trong số nạn nhân có cô Hoàng Thị Tam Tuy (các tên riêng và địa danh nào
không đoán được sẽ ghi lại đúng như tác giả đã ghi – Người dịch), 26 tuổi, rất
xinh, bán hàng ở chợ, nhà tại đường Tô Hiến Thành, Gia Hội. Bị quân Mặt Trận,
theo lời kể của chị/em cô, vào nhà bắt đi đưa vào trường điều tra ngày 22 tháng
2, rồi chẳng thấy trở về. Xác cô chân tay bị trói, miệng nhét đầy giẻ; mình mẩy
không thấy một vết thương nào. Xác cô nằm chung với bốn nạn nhân khác, mà hai
trong số đó có bà con với chị/em dâu cô. Trong số các nạn nhân khác có bà góa
Dương Thi Co, 55 tuổi, nghề bán guốc, 4 con. Bị bắt tại nhà ngày 22.02, đưa vào
trường Gia Hội và bắn chết. Xác bà được các con nhận diện ngày 26.02. Người thứ
ba là Lê Văn Thắng, 21 tuổi sinh viên ở Gia Hội. Anh bị bắt đi tham dự lớp huấn
luyện ngày 14.02. Xác được gia đình phát hiện và nhận diện ngày 16.03, chung hố
với hai nạn nhân khác trong khuôn viên trường.
Người thứ tư là Trần Ðình Trọng, sinh viên kỹ thuật và mới lập gia đình. Bị
bắt ngày 06.02, tìm thấy xác ngày 26.02. Người thứ năm Nguyễn Văn Dong, cảnh
sát 42 tuổi, bị bắt ngày 17.02 ở nhà một người quen và bị chôn sống, tay trói
tại trường Gia Hội. Tìm thấy xác ngày 26.02. Người thứ sáu là Lê Văn Phú, 47
tuổi, cảnh sát. Bị bắt tại gia ngày 08.02. Vợ con van xin Mặt Trận cho phép
chồng ở lại nhà, nhưng tối hôm đó bị hành quyết, bị bắn vào đầu, xác tìm thấy
ngày 26.02, ở khuôn viên trường. Người thứ bảy, bà Nguyễn Thi Lao, buôn thúng
bán bưng, 48 tuổi. Bị bắt trên đường lộ. Xác tìm thấy ở trường học, tay bị
trói, miệng nhét đầy giẻ; mình mẩy không bị một vết thương nào. Có lẽ bà bị
chôn sống. Những xác khác tìm thấy gồm một đại úy cộng hòa, hai trung úy, ba
trung sĩ và mấy viên chức hành chánh. Bốn xác người của Mặt Trận.
Vùng mồ lớn thứ hai được khám phá gồm 12 hố với 43 tử thi ở Chùa Theravada,
thường gọi là Tăng Quang Tự.
Vùng thứ ba tại Bãi Dâu với 3 hố, 26 xác. Trong số nạn nhân ở Chùa có ông
Phan Ban Soan, 60 tuổi, sinh tại Phú Vang, Thừa Thiên, nhà ở đường Tô Hiến
Thành, có gia đình, 5 con. Ông Soan làm nghề thợ may, trước có tham gia vụ Phật
giáo chống tổng thống Diệm. Năm 1961 bị bắt vì chống chính quyền, được thả năm
1967. Bị Việt cộng bắt đi tối 12.02 trên đường Chi Lăng, Gia Hội. Cộng sản phân
công ông chôn xác chết và phân phối gạo. Xác ông tay bị trói, bị bắn xuyên đầu,
dập cùng hố với 7 người khác.
Một người khác tìm thấy ở Chùa là ông Ðặng Cơ, 46 tuổi, nghề thầu khoán, bị
bắt tại gia ngày 06.02, tìm thấy xác ngày 26.02. Một người khác nữa là ông Ngô
Thông, 66 tuổi, nhân viên hành chánh hồi hưu, bị bắt ngày 08.02, xác dập chung
với 10 người khác. Một số tử thi có vết thương, một số tay bị trói giật cánh khỉ
bằng dây thép gai, và một số miệng bị nhét giẻ.
Lần đầu tiên nói chuyện với đồng bào trong vùng tôi tưởng chỉ có 16 xác ở
Chùa và 3 xác khác ở Bãi Dâu. Nhưng bên hông và sau Bãi Dâu có nhiều hố chôn.
Tất cả ở đây chết vì bị trả thù. Một vài người là thành viên Mặt Trận nhưng bị
giết vì muốn ở lại thành. Họ đều là dân Gia Hội. Bốn tháng sau, tháng 08.68,
tôi trở lại đây để tìm hiểu thêm uẩn khúc của những cái chết. Thân nhân các nạn
nhân lẫn dân địa phương đều xác nhận những điểm trên.
Tiết lộ về “mồ chôn tập thể” đầu tiên của chính quyền miền Nam là vào ngày
28.02.68, khi phát ngôn nhân chính phủ cho biết về một hầm “ghê gớm ở Cồn Hến
gồm 100 xác công chức và quân nhân bị bắt khoảng đầu tháng”. Cũng theo phát
ngôn viên, “các nạn nhân bị Việt cộng giết, thân xác họ không được lành lặn”.
Cồn Hến nằm giữa sông Hương. Lúc đầu Mặt Trận không màng chiếm Cồn. Nhưng sau
nó trở thành một vị trí chiến lược cho việc tiến quân và rút quân từ Gia Hội ra
vùng cát Ðông Nam, vùng họ chiếm từ nhiều năm nay. Chính quyền xác nhận có 101
xác trong hầm. Theo đồng bào chạy thoát từ Cồn thì trong số nạn nhân có nhiều
người nam mang quân phục, một vài người bận đồ kaki của Mặt Trận, một số khác
bận áo dòng ngắn, một vài người mang quân phục lính cộng hòa và một vài người
bận thường phục. Tôi hỏi nhân viên chính quyền địa phương về tên tuổi các nạn
nhân thì được trả lời là các tử thi không được nhận diện đầy đủ; họ xác nhận là
không thể nào quả quyết tất cả đều bị hành quyết; một vài nạn nhân có thể đã
chết trong khi giao tranh và vài xác khác, cũng theo họ, là của quân thù.
Vùng chôn thật sự thứ tư nằm sau Tiểu chủng viện, nơi dựng tòa án nhân dân.
Hai hầm chứa xác ba người Việt làm việc cho tòa đại sứ Hoa Kỳ, hai xác người Mỹ
ông Miller và ông Gompertz, nhân viên USOM, và xác một giáo sư trung học người
Pháp bị giết vì lầm là người Mỹ. Tất cả đều bị trói tay. Xác tìm thấy và liệm
ngày 09.02. Xác hai người Mỹ và người Pháp được đưa về Ðà Nẵng.
Quận Tả Ngạn, vùng thứ năm, do một quân nhân người Úc khám phá ngày
10.03.68. Ba hầm rãnh với 21 tử thi, tất cả đều nam giới, tay bị trói, đạn bắn
xuyên đầu và cổ. Một hầm khác, vùng thứ sáu, nằm cách Huế 5 dặm về hướng Ðông,
được khám phá ngày 14.03.68 do một cố vấn quân sự Mỹ cùng toán lính Việt đi
kèm. Hai lăm xác, tất cả đều bị bắn vào đầu, tay trói giật cánh khủyu. Nhờ một
cánh tay của một nạn nhân nhôi ra khỏi mặt đất mà hầm được khám phá.
Phía Nam Huế qua hoàng thành ở Nam Giao là nơi mộ phần của vua Tự Ðức và
Ðồng Khánh. Nơi đây là vùng chôn tập thể thứ bảy. Ðây đó trên dưới hai chục hầm,
có cái giữa đất bằng, có cái dưới bụi cây, có cái bên bờ suối. Bên cạnh hầm
lớn, có những hố nhỏ chứa một, hai hoặc ba xác. Hầm đầu tiên được khai quật
ngày 19.03.68, nhưng mãi cho tới tháng 6.69 vẫn còn xác được tiếp tục phát
hiện. Ban đầu còn dễ nhận dạng, vài xác mang quân phục, ngoài ra còn lại thường
phục. Ðặc biệt ở đây không có xác phụ nữ và trẻ con. Càng về sau việc nhận diện
trở nên khó khăn. Dù vậy, cuối hè 1969, người ta cũng nhận diện được xác bố của
ông thôn trưởng thôn Than Duong. Vì con trai vắng mặt nên cụ già bị bắt thay
con. Về sau con đi tìm cha mãi không gặp. Xác cha, đạn xuyên đầu và ót, được
tìm thấy tháng 6.69.
Cũng trên đường hướng Nam đó là Tu viện Thiên An, nơi xảy ra trận chiến ác
liệt trong thời gian cộng sản tấn công. Khi buộc phải triệt thoái, cánh quân
chiếm đóng phía Nam thành phố rút lên núi và chiếm giữ ngôi Tu viện xây cách
đây 26 năm, cách Huế 6 cây số hướng Nam, vào ngày 21.02. Lúc đó Tu viện đang là
nơi lánh nạn cho hơn 3000 người. Mặc cho các cha dòng van xin, cộng sản đã cho
thần hỏa thiêu rụi tòa nhà chính trong vòng hai ngày. Các tòa nhà bên là chỗ
sinh kế của nhà dòng cũng bị lửa đạn thiêu hủy. Thư viện gồm những pho thư khố
và thủ bút quý thời vua chúa cũng chung số phận.
Cha Dom Romain Guillaume, một trong những linh mục của dòng, bị một lính
Việt cộng bắn vào vai lúc rời khỏi tòa nhà cháy sau khi đã di tản hầu hết dân
tỵ nạn. Một linh mục người Việt bị bắn vào chân. Khi rút khỏi đóng gạch vụn Tu
viện ngày 25.02, Cộng quân mang theo trên 200 người, trong đó 2 linh mục người
Pháp, cha Urbain, 52 tuổi, và cha Guy, 48 tuổi và một số tu sĩ linh mục, tập
sinh và người giúp việc. Những người này bị lọc bắt trong thời gian cộng quân
chiếm Nhà dòng và được dẫn đi về hướng Nam. Ða số bọn họ kết liễu cuộc đời gần
chỗ lăng các vua. Tới tháng 6.69, tổng cộng 203 xác được khai quật. Trong số
nạn nhân ở lăng Tự Ðức có Ðoan Xuan Tong, 20 tuổi học sinh trung học, nhà ở
làng Nguyệt Biểu, quận Hương Thủy. Em biến mất khỏi nhà ngày 06.02.68. Xác em
được thân nhân tìm thấy bên cạnh lăng vua ngày 19.03.68, chôn chung với năm
người khác cùng làng. Tại lăng Ðồng Khánh có xác linh mục Urbain lấp cùng một
hố với 10 người khác. Một người Việt khai quật xác cho tôi hay tay linh mục bị
trói, mình không có một vết thương, chứng tỏ có lẽ bị chôn sống. Xác ông liệm
ngày 23.03.68 và sau đó được một linh mục đồng dòng nhận diện. Vị linh mục này
không thể xác nhận được là tay cha Urbain có bị trói hay không. Sự kiện không
có xác đàn bà và con trẻ trong các hầm chứng tỏ các nạn nhân đã bị hành huyết dã
man chứ không phải chết trong lúc giao chiến. Nếu bị pháo kích hoặc oanh tạc
thì chắc chắn đã có người bị thương và sống sót, hoặc có người chết không toàn
thây. Và chắc rằng họ không phải bị chôn tại chỗ, bởi theo phong tục người chết
luôn được mang về nhà mình để hồn họ khỏi phải vất vưởng muôn kiếp. Vì thế
nguyên tắc của đối phương là phải dấu nạn nhân thế nào để không bị khám phá, mà
nếu có bị khám phá thì cũng không nhận diện được là ai.
Ngoài thi hài cha Urbain, thi hài cha Guy dòng Thiên An cũng được tìm thấy
trong một hầm riêng ngày 27.03.68 gần lăng Ðồng Khánh, với vết đạn ở đầu và cổ.
Vùng chôn thứ tám ở cầu An Ninh khám phá ngày 01.03 với 20 xác. Trong số tử
thi có ông Trương Văn Triệu, trung sĩ lính Cộng hòa. Trung sĩ Triệu có vợ và 5
con. Du kích cộng sản địa phương bắt ông ở trường mẫu giáo Kim Long, nơi ông ẩn
trốn. Bị trói và dẫn đi. Nhờ dân chúng gần đó cho hay Việt cộng có chôn xác
người gần cầu nên vợ ông đã tìm được xác chồng sau đó.
Xác ông Tran Hy, thuộc lực lượng Nhân Dân Tự Vệ, có vợ 4 con, cũng được lấp
cùng hầm với ông Trieu. Ông bị bắt ngày 20.02 khi đang trốn trong nhà một láng
giềng. Tay bị trói cánh khuỷu, người không có vết thương nào.
Vùng chôn thứ chín ở cửa Ðông Ba, nơi xảy ra giao tranh lớn. Ðây chỉ có một
hầm 7 người bị bắt tại gia và giết sau đó. Trong đó có ông Ton That Quyen, 42
tuổi. Có gia đình với 10 người con, bị bắt và dẫn đi hôm 08.02.68. Gia đình tìm
được xác ông ngày 05.05.68.
Ðịa điểm thứ mười là trường tiểu học An Ninh Hạ, một hầm 4 xác, trong đó có
cảnh sát Tran Trieu Tuc, 52 tuổi, có vợ 7 con. Ông bị bắt tại nhà và mang đi
ngày 05.02.68. Xác tìm được ngày 17.03.68 ở trường, mang vết thương ở đầu và
cổ. Ba xác còn lại: một sinh viên, một quân nhân và một cảnh sát.
Ðịa điểm thứ mười một là trường Van Chi, một hầm 8 xác. Trong đó có anh Le
Van Loang, thợ máy, 35 tuổi, có vợ 6 con. Theo lời chị Loang, anh bị bắt đi dự
lớp huấn luyện ngày 06.02. Khi bị dẫn đi, chị và các cháu chạy theo van xin
nhưng vô hiệu. Họ ra lệnh mẹ con chị phải quay trở về. Xác anh được những gia
đình đi tìm xác người thân tìm thấy ngày 10.03.68 gần trường. Một vài xác bận
quân phục, 4 xác chắc chắn là thường dân, trong đó có một sinh viên.
Ðịa điểm thứ mười hai ở chợ Thông, cách nội thành 2 cây số về hướng Tây.
Tìm được 102 xác. Trong đó có ông Nguyen Ty, 44 tuổi, thợ xây gạch, có vợ 6
con. Bị bắt ngày 02.02.68 và có lẽ bị giết ở chợ cùng với nhiều nạn nhân khác.
Tìm được xác ngày 01.03, tay bị trói, một viên đạn từ ót bung ra cửa miệng.
Nhiều người khác cũng bị bắn, tay trói. Có nhiều xác đàn bà nhưng không có trẻ
con.
Ðịa điểm thứ mười ba là vùng lăng Gia Long, ở Thiện Hàm bên bờ sông Hương,
cách thành phố khoảng 16 cây số hướng Nam và cách ÐànNam Giao cỡ 13 cây số Tây
Nam. Gần 200 xác được tìmthấy dưới các đám cây vàbụi rậm, gồmhọc sinh, sinhviên,nhân
viên hành chính, quân nhân và nhiều phụ nữ. 27 người thuộclàng lân cận. Sau khi
an ninh tạm vãn hồi, các bà đi tìm chồng đã khám phá ra địa điểm này. Lúc đầu,
họ không dám đi quá xa. Nhưng hai ngày sau, 25.03.68, họ đụng vào một miếng đất
mới đào trên triền một trong nhiều thung lũng nhỏ trong vùng. Xác người thân họ
nằm nơi đây, tay bị trói cánh khủy, đạn bắn từ sau cổ xuyên qua miệng. Có nhiều
rãnh hầm nối nhau với nhiều xác. Một số nạn nhân từ nội thành, những người khác
từ các làng lân cận. Một số là sinh viên từ Huế về nhà ăn tết.
Ðịa điểm thứ mười bốn nằm ở giữa Chùa Tăng Quang và Tường Vân, 2,5 cây số
Tây Nam Huế. Ở đó có xác 4 người Ðức, 3 bác sĩ và một bà vợ, tìm thấy ngày
02.04.68.
Ðịa điểm mười lăm ở Ðông Gi, 16 cây số phía đông Huế trên đường ra bờ biển,
tìm thấy ngày 01.04.68. 101 xác, đa số bị trói và miệng nhét đầy giẻ. Tất cả
đều nam giới,trong đó có15 sinh viên, nhiều quân nhân và nhân viên hành chính,
già lẫn trẻ. Một vài xác không thể nhận diện được.
Tới tháng 05.68, tổng cộng có trên 900 xác người bị coi là mất tích đã được
tìm thấy. Dĩ nhiên còn nhiều người chưa được tính… Ðầu năm 1969 nhiều địa điểm
khác được khám phá.
Ðiểm chôn thứ mười sáu: Ðầu tiên ở làng Vinh Thái. Ðịa điểm thứ hai ở làng
Phú Lương. Ðịa điểm thứ ba ở làng Phú Xuân, tất cả thuộc quận Phú Thứ. Tất cả
được tìm thấy trong khoảng từ tháng 01 tới tháng 08.69. Quận này với quận kế
bên bị cộng sản chiếm nhiều năm và nơi đây xảy ra nhiều cuộc không tập kéo dài
nhiều tháng. Mải tới đầu năm 1969 quân Cộng hòa mới tiến vào được vùng này…
Ba làng này cách thị xã Huế chừng 15 cây số về các hướng Ðông và Ðông Nam,
cách bờ biển từ 3 tới 5 cây. Theo các viên chức địa phương trên 800 xác được
tìm thấy trong các vùng trên trong vòng 6 tháng. Có hầm đào sâu, có hầm cạn.
Nhiều xác chôn lâu rồi, quần áo đã mục… Trong số nạn nhân người ta nhận diện
được 16 học sinh trung học, theo học ở Huế nhưng về quê ăn tết. Cả nhân viên
hành chính, đàn ông, đàn bà, trẻ em, già lẫn trẻ. Một số tay bị trói, đa số đều
chôn cùng một hố. Vùng làng Vinh Thái đào được 135 xác; làng Phú Lương 22; và
làng Phú Xuân đợt đầu 230, đợt sau, khám phá vào cuối năm 69, 375 xác. Dù thời
gian qua lâu, nhưng nhờ lượng muối cao của đất vùng này giữ, đa số tử thi hãy
còn có thể nhận diện được. Nhiều nhân viên hành chính và quân nhân, bị bắn ở cổ
và đầu. Ða số nạn nhân thuộc nam giới. Một vài phụ nữ và trẻ em và một vài
người mang nhiều loại vết thương. Có các linh mục, tu sĩ và chủng sinh của các
làng lân cận mất tích từ hơn 20 tháng kể từ biến cố tháng 02.68. Trong số 357
xác có cha Bửu Ðồng, một cha sở quận Phú Vang và 2 chủng sinh. Cha đồng dấu
được trong túi sau bộ đồ ngủ đen trên người một hộp mắt kính trong đó có ba bức
thư tiếng Việt. Một trong ba lá thư này, có bản chụp trưng bày ở nhà thờ chính
tòa Huế, ông viết cho bổn đạo mình (thư tìm thấy trên thi thể ngày 8.11.69).
Các con cái yêu dấu:
Ðây là bút tích cuối cùng để nhắc cho các con ghi nhớ bài phúc âm thánh
Phêrô trên thuyền bão táp… (3 chữ đọc không ra) đức tin. Lời cầu chúc của Cha
ngày đầu xuân cho mọi công việc Tông đồ của Cha giữa chúng con, nhớ.. (hai chữ
đọc không ra) khi sự sống của Cha sắp kết liễu theo ý chúa.
Hãy mến Mẹ sốt sắng lần hột, tha mọi lỗi lầm của Cha, xin cám ơn Chúa với
Cha, xin Chúa tha tội cho Cha và tận tình thương nhớ cầu nguyện cho Cha được
sống trong tin tưởng, kiên nhẫn, trong khắc khổ để kiến tạo hòa bình của Chúa
Kitô và phục vụ tinh thần Chúa và mọi người trong Mẹ Maria. Xin cầu nguyện cho
Cha bình an sáng suốt và can đảm cùng mọi sự đau khổ tinh thần, thể xác và gởi
mạng sống cho Chúa qua tay Ðức Mẹ.
Hẹn ngày tái ngộ trên nước
Trời.
Chúc lành cho chúng con.
(Chữ ký Cha Ðồng)
Chúc lành cho chúng con.
(Chữ ký Cha Ðồng)
Ðiểm chôn thứ mười bảy ở làng Thượng Hòa, quận Nam Hòa, bên bờ sông Tả
Trạch, một phụ lưu sông Hương phía Nam lăng Gia Long. 11 xác được tìm thấy giữa
các lùm cây trong tháng 07.69. Chỉ có ba xác nhận diện được là người của làng
bên cạnh. Tất cả đều mang vết thương cổ và đầu, dấu chỉ của sự hành quyết.
Ðiểm thứ mười tám ở Thúy Thạnh, quận Hương Thủy, tìm thấy tháng 04.69, và ở
làng Vinh Hưng, quận Vinh Lộc, tìm thấy tháng 07.69. Cả hai làng nằm trong vùng
bị cộng sản chiếm từ lâu… Trên 70 xác, nhiều xác không còn nhận diện được nữa,
đa số là đàn ông, vài đàn bà và trẻ con. Họ được nhận diện là người của các
làng lân cận và vài người có thể bị chết vì chiến cuộc bởi mình họ mang nhiều
vết thương và xác không toàn vẹn. Các nạn nhân khác bị bắn ở cổ và đầu.
Ðiểm thứ mười chín tìm thấy vào tháng 09.69 ở Khe Ðá Mài, quận Nam Hòa, một
con suối nhỏ chảy vào Khe Ðại, phụ lưu sông Hương. Khe chứa đầy xương người, có
xương đủ bộ, có xương nằm riêng, sọ nằm riêng; tất cả được nước suối mài trắng
tinh. Dân đi cưa gỗ tìm thấy địa điểm này. Nạn nhân có lẽ đã được chôn bên bờ
suối trong mùa mưa và nước suối đã dần soi mòn đất để lộ xác ra, cũng có thể là
nạn nhân bị vất xuống suối, chứng cớ là các mảnh quần áo được tìm thấy dọc bờ
hoặc ngay dưới khe, thì việc chôn lấp nạn nhân có lẽ xảy ra trong các tháng mùa
mưa (tháng hai, ba, tư). Và điều này có nghĩa là nạn nhân đã được dẫn thẳng tới
đây hoặc được mang tới đây sau khi bị bắt một thời gian ngắn. Nếu chôn trong
mùa suối khô, thì sự kiện xảy ra trong khoảng từ tháng 06 tới 10.
Có lẽ để giữ bí mật khi rút lui Việt cộng đã thanh toán vội vàng các nạn
nhân tại đây. Theo luật thông thường, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, kẻ thù thường
chôn cất xác đồng đội đàng hoàng. Tuy nhiên cũng có thể đây là xương và sọ của
lính Mặt Trận và Bắc Việt. Như vậy thì số phận nào cho những người Phú Cam bị
mất tích?
Nghiên cứu các phúc trình quân sự Mỹ thì không thấy có một cuộc không tạc
lớn hoặc của máy bay B 52 nào ở vùng trên, ngoại trừ trận chiến gần Lộc Sơn vào
hạ tuần tháng 04.68, một địa điểm cách xa nơi đó chừng 10 cây số. Vả lại lập
luận mang người bị chết vì bom B 52 băng qua vùng đất gập ghềnh để đưa về chôn
ở suối này quả không vững. Ðường lên núi dễ dàng hơn nhiều. Cũng vậy, nếu kẻ
thù bị thiệt hại nặng ở trận Lộc Sơn và, theo thói quen sẵn có, đã mang xác 500
đồng đội đi thì hẳn lộ trình phải là hướng núi, gần và dễ di chuyển hơn nhiều,
chứ làm sao mà chọn băng qua cánh rừng dày đặc khó xuyên qua được này.
Trong thời gian cuộc tấn công của cộng sản có xảy ra giao tranh lớn kéo dài
từ Huế qua Bến Ngự, cầu Nam Giao tới gần và trong Nhà dòng Thiên An. Nhưng đã
không có tiếp tục đánh nhau lớn về mạn Nam, khi quân thù chọn đườn rút lui lên núi,
hướng trái với Ðá Mài. Khe Ðá Mài nằm cách thành phố 40 cây số về hướng Nam,
bên ngoài vùng lăng tẩm; nơi nầy được coi là vùng không người, chỉ có cộng quân
lai vảng. Khe chứa 500 sọ. Ðịa thế cách trở, cách xa mọi văn minh bởi rừng đồi
vách đá cho thấy người ta không muốn để số xác kia, xác của những người mang từ
Huế ra bị khám phá, mà nếu có khám phá thì cũng không nhận diện được. Nằm lẫn
với xương là các mảnh quần áo thường, không phải kaki hay vải màu xanh bộ đội
miền Bắc hoặc quân phục Mặt Trận. Các sọ vỡ xương trán tất thảy cho thấy bị
đánh bởi một vật gì nặng. Một số sọ khác không thấy vết tích gì ở xương, đây có
thể là nạn nhân chết trong lúc giao tranh. Lần lượt tất cả hài cốt được chuyển
về thành phố, nơi họ ra đi và tống táng trong an bình… Sau khi Ðá Mài được khám
phá, vẫn còn vài trăm người mất tích. Trong số đó có một số sinh viên, điển
hình là các anh Ngô Anh Vũ, Nguyễn Văn Bích. Cả hai bị bắt ở nhà thờ Phủ Cam.
Những người khác, viên chức hành chánh, thành viên chính đảng, thanh niên công
giáo, Phật giáo, tu sinh, giáo chức và quân nhân. Họ bị bắt đi, biệt tăm tin
tức.
Bên cạnh các hầm chôn tập thể, còn có các nạn nhân lẻ tẻ, bị giết tức tưởi.
Có khi cả gia đình bị tiêu diệt như gia đình ông Nam Long, thợ buôn, bị bắn
cùng vợ và 5 con tại nhà. Ông Ngô Bá Nhuận bị bắn dã man trước rạp chiếu bóng
địa phương và ông Phan Văn Tường, lao công, bị giết ngoài nhà ông với bốn đứa
con…
The Vietcong
Massacre at Hue.
Tác giả: Elje Vannema
Tác giả: Elje Vannema
304Đen – Llttm - OVV
Không ghi tên người dịch
No comments:
Post a Comment