Friday, December 31, 2021

Chúc Mừng Năm Mới Dương Lịch 2022 - 304Đen

 Chúc Mừng Năm Mới Dương Lịch 2022


304Đen Kính Chúc

Thursday, December 30, 2021

Đầu Hạ Xuân Tàn Người Cũ - Thuyên Huy

 Đầu Hạ Xuân Tàn Người Cũ

Cho Nguyễn Thị C, có một thời là cô giáo từ trường Sư Phạm Sài Gòn.xưa




 













Cũng đó mùa Xuân tàn đầu Hạ

Lâu rồi mới về lại chốn xưa

Hàng dừa bên bờ soi bóng ngã

Nhà em vẫn cổng hoa Giấy thưa

 

Lối cũ đường còn vương xác pháo

Lưa thưa mấy cụm muộn Mai tàn

Rộn rã Phượng hồng phố thay áo

Nắng lơi vạt nhớ chợ sớm tan

 

Một chiều gặp em trên đầu dốc

Cũng dáng xưa gầy tóc ngang lưng

Nép góc phố đông buồn muốn khóc

Tên em thèm gọi mà ngập ngừng

 

Đường theo em về sau cổng khép

Người xưa biết còn nhớ gì không

Tôi vẫn cô đơn đời nửa kiếp

Cố nhân giờ chắc đã lấy chồng

 

Thuyên Huy

Nơi cứ tưởng là quê mình 2021

Con Bu - Không tên tác giả

 

Con Bu





 Lúc qua ở bên Tây, thỉnh thoảng tôi về thăm mẹ ở tỉnh xa. Mẹ nuôi chó. Thấy mẹ cưng quý chó, tôi cũng phải nể nang nó ra mặt. Tôi mạnh dạn đưa tay vuốt ve đầu nó nói vài ba câu xã giao cho ra vẻ có tình (để làm vui lòng mẹ). Nhưng tôi nói tiếng Việt nó chẳng hiểu gì cứ sủa gâu gâu. Mẹ bảo phải nói tiếng Tây. Tôi chột dạ, lỡ nói không đúng văn phạm, chắc nó chẳng hiểu. 


Trong phòng khách, con chó được ngồi một vị trí ưu tiên nhất, đó là chiếc ghế bọc nệm gần mẹ tôi. Trong phòng ăn, nó cũng chiếm một vị trí gần bà chủ nhà. Thức ăn của nó được nấu riêng, không phải là thứ dư thừa. Mẹ tôi gọi nó là Bu (viết theo chữ Pháp là Bou). Cái tên dễ gọi không lôi thôi như Jean Louis David, hay Jonathan.


Tối ngủ, mẹ nói Bu qua ngủ với mẹ, còn phòng nó để dành cho tôi. Đó một căn phòng có giường rộng dành cho khách, nhưng không có khách thì Bu chiếm ngự. Căn phòng có mùi đặc biệt, dù thay áo gối ra giường khác sạch sẽ tươm tất, tôi vẫn ngửi được cái mùi kỳ lạ từ khi bước vào phòng. Đó chính là mùi của con Bu, nó khác với mùi của con người. 

Suốt cả một đêm tôi không thể nhắm mắt ngủ vì cái mùi này.

 

Cuộc đời mẹ, từ những ngày ấu thơ, lớn lên lấy chồng cho đến nay, trải biết bao thăng trầm. Tôi ít dịp được ở gần mẹ, sau năm mười ba tuổi, mẹ đã đi buôn bán xa rồi. Tôi vào học nội trú trường bà sơ, kỷ luật nghiêm nhặt.  Cuộc chiến tranh Việt Pháp đã làm rách nát mọi gia đình, trong đó có tôi. Cha tôi đi kháng chiến chống Pháp, mẹ ở nhà buôn bán tần tảo với người Pháp (đôi khi lo tiếp tế cho cha tôi ở mật khu). Nhờ có học tiếng Pháp, mẹ làm ăn phát đạt. Mấy tấm hình của mẹ chụp ngày xưa, thấy mẹ rất đẹp. Có lẽ nhờ ở những ưu điểm ấy mà mẹ tôi sớm chịu những oan trái cuộc đời. 


Tôi luôn ám ảnh, cho rằng một con người có ưu điểm, hay có may mắn hơn người khác thì phải bị thua thiệt ở mặt nào đó. Tôi nhớ có lần gặp một bác lớn tuổi cho biết rằng mẹ cháu xưa kia đẹp lắm. Tôi thật xúc động, chỉ muốn ôm bác nói vạn lời cám ơn. 


Tôi là một đứa con như muôn vạn đứa con khác, luôn mong muốn nghĩ rằng mẹ của mình là người đàn bà hơn người. Mẹ đẹp hơn người, giỏi hơn người, thông minh hơn người, nhưng, mẹ khổ hơn người. Nghĩ vô lý thật.


Mỗi khi có tôi bên cạnh, mẹ kể chuyện đời xưa, những chuyện buồn khổ ám ảnh mẹ không nguôi. Tôi an ủi, mẹ ơi đừng nhắc những chuyện buồn nữa, sao mẹ không nhớ những chuyện vui.


Mẹ lắc đầu, mẹ chẳng biết cái chi vui mà kể. Thuở nhỏ năm lên mười tôi thuộc thơ TTKH, vì mẹ hay ngâm nga. Mẹ cũng ngâm lại bài thơ của cha tôi làm tặng mẹ khi hai người mới thương nhau, ngâm xong mẹ nói, thương vậy mà cũng bỏ đi. 


Đang lan man nghĩ ngợi, nửa đêm, con Bu bỗng chạy qua phòng tôi, có lẽ muốn chiếm lại giường ngủ. Nó nhảy phóc lên giường. Tôi khiếp vía ngồi ngay dậy bật đèn sáng. Nó nhả vào cạnh tôi một khúc xương ống trắng hếu, lại gầm gừ nhìn tôi. Con này thật quá quắt, nó muốn đuổi mình đây.


Sáng mai tôi đáp xe lửa về Paris sớm, vì giận con Bu quá. Mẹ tôi hỏi sao không ở lại thêm. Tôi buột miệng: ngủ với chó hôi quá chịu không được. Câu trả lời rất đúng sự thật, nhưng làm mẹ phẫn nộ. Mẹ giận dữ nói tao nhờ nó mà sống được đến ngày hôm nay, con cái có đứa nào chịu ở với tao, mi chê nó hôi tức chê tao hôi.


Tôi ân hận đã lỡ lời. Tôi chào mẹ ra về, con Bu thấy thế, vì cũng không mấy ưa tôi, cứ đứng ở cửa sủa gắt lên. Đáng lẽ ra tôi phải vung tay nói muôn ngàn lời cảm tạ với Bu, rằng em đã thay mặt chị ở với mẹ, yêu thương mẹ, em đã giúp thêm nghị lực cho mẹ sống với đời này, chị biết em là con người hóa kiếp chó, em nhiều tình cảm đối với mẹ, mẹ bảo gì em cũng vâng lời, không hề tỏ ý kiến trái lời mẹ, em là đứa con ngoan ngoãn nên được mẹ thương yêu nhất nhà.


Tôi thầm thì nói với Bu khi ngồi trên chuyến xe lửa tốc hành trở về. Ừ! Ừ nhỉ, tôi sẽ viết cho nó bức thư dài tạ lỗi. Nhưng về đến nhà, công việc dồn dập trước mắt, tôi lăn vào cuộc sống mệt mỏi và quên bức thư tha thiết dự tính viết cho Bu. 


Mẹ tôi giam giữ quá nhiều cay đắng trong lòng, chỉ cần một vết nứt nhỏ, niềm đau nỗi khổ ấy chợt vỡ ra, tuôn ào ạt. Mẹ viết cho tôi một bức thư dài nói về con chó của mẹ. Mẹ ca tụng nó như một đứa con nuôi hiếu thảo nhiều tình cảm, và kết luận nó là con chó nhưng tốt hơn con người. 


Những chuyến về thăm Việt Nam, mẹ đem Bu đi theo, mua cho nó một chỗ ngồi trên máy may. Mẹ không thể sống xa Bu. Bu là điểm tựa tinh thần, là sự an ủi, là sự ve vuốt cho nỗi cô liêu hoang vắng đời mẹ. Mẹ quyết định về sống lại ở Việt Nam, vì theo mẹ, xứ Tây này ích kỷ quá, sống không nổi.

 

Năm vừa qua, vào nửa đêm, tôi bị đánh thức dậy vì cú điện thoại gọi từ Sàigòn cho biết mẹ đã chết rồi. người mẹ của mình chết đi, mình như thế nào nhỉ? Muôn ngàn mũi kim châm chích vào thịt da mình, muôn ngàn tấn ân hận đè lên trái tim mình. Vé máy bay mua không kịp, tôi về trễ, không kịp giã từ mẹ, không kịp đưa mẹ vào lò thiêu xác. Không kịp gì cả. Nếu tôi suy nghĩ kịp, nếu tôi hành động kịp, cuộc đời tôi bớt tiếc nuối nhiều chuyện. 


Hôm tẩm liệm mẹ ở Sàigòn, dì tôi nói con Bu chạy vô chạy ra tru lên thảm thiết, người ta phải cột cho nó vành khăn trắng trên đầu. Nhìn tấm ảnh mẹ để trên quan tài bên cạnh vòng hoa phong lan màu tím, mẹ cười tươi dịu dàng. Mẹ đẹp quá. Mẹ vui lòng được chết trên quê hương mình sau nửa đời xa cách. 


Dì tôi nói :chị mất thế mà yên. Sống khổ, nên chết là yên, là hạnh phúc. Chỉ có chết, mẹ mới được bình an. Tôi ôm bình tro mẹ trong tay nước mắt chảy dài, tự hỏi tại sao lúc mẹ còn sống, tôi không hề một lần nào ôm mẹ trong tay. Tôi xa cách mẹ và mẹ xa cách tôi. Mới đó mẹ chết rồi. Tôi ngơ ngẩn lảm nhảm. Đất vẫn quay, trời vẫn có ngày có đêm, xe vẫn bóp còi inh ỏi trên đường phố Sàigòn, chỉ có mẹ là chết. 


Tôi không bao giờ gặp mẹ trên cuộc đời này nữa. 

tôi về đến nhà Sàigòn, con Bu chạy ra nhìn tôi, đôi mắt đen láy chăm chú nhận diện quen biết, vẫy đuôi mừng rỡ. Cả nhà ngạc nhiên, tôi cũng ngạc nhiên, sao nó còn nhớ tới mình.


Bu nhớ chứ, nó nhớ tôi là con của mẹ, người đã sống cùng với nó như hình với bóng. Mẹ tôi bỏ nó ra đi mãi mãi không về. Mấy ngày sau khi mẹ mất, nó bỏ ăn nằm ủ rũ trong góc nhà. Khi tôi về, bỗng dưng nó quấn quít bên cạnh tôi. Tôi ngồi đâu, Bu cũng lẩn quẩn theo ngồi bên cạnh. Ai bảo gì cũng mặc, chỉ có tôi bảo nó mới nghe lời. Các dì bảo con chó khôn thật, vì tôi giống mẹ. Máu huyết tôi là máu huyết mẹ, 


Bu hiểu điều ấy hơn ai hết, và trong thâm tâm nó, hy vọng rằng tôi sẽ nuôi nấng nó thay mẹ tôi (có thể nó quên chuyện đã từng dọa nạt tôi trong đêm khuya). 

Buổi tối, không ngủ được, vào nửa đêm, tôi bật đèn ngồi dậy. Bu nằm dưới chân giường đưa đôi mắt đen buồn thảm nhìn tôi. Đôi mắt nó ướt như vừa mới khóc.


Tôi không ngủ, nó cũng không, cả hai chúng tôi đều nhớ mẹ. Tôi đưa tay vuốt đầu Bu, nó dụi đầu vào tay ư ử ra chiều cảm động. Bu thè lưỡi liếm vào chân tôi, cử chỉ Bu thường làm với mẹ, chiếc lưỡi mềm mại của Bu thật trìu mến.


Tôi thương mẹ quá, tôi thấu hiểu tại sao Bu chiếm được tình thương của mẹ. Có khi nào tôi ôm chân mẹ như thế chưa. Bu đã hôn lấy bàn chân gầy ốm tật nguyền của mẹ mỗi ngày, mỗi đêm khi mẹ mất ngủ. Tôi đau đớn ân hận. 


Tôi bảo nó lên giường nằm bên cạnh. Mẹ nói đúng, Bu xứng đáng hơn tôi. Có lẽ mẹ tôi ở nơi nào đấy, đang mỉm cười với con gái, biết tôi thương yêu Bu như mẹ đã thương yêu nó. Điều này chắc chắn mẹ vui lòng lắm. 


Khi đến tòa lãnh sự Pháp để lo giấy tờ khai tử cho mẹ, tôi bị làm khó dễ ở cổng gác với nhân viên Việt Nam, lý do hôm nay đông khách, để lần khác. Tôi xin trực tiếp nói chuyện với nhân viên sứ quán người Pháp, chẳng đặng đừng, họ cho tôi vào.


Trong văn phòng dịch vụ, không thấy có bóng khách nào ngồi chờ. Anh Tây trẻ ra bắt tay chào mời ngồi đàng hoàng. Chị đầm lo giấy tờ, nhanh chóng đưa giấy xin ký tên vào tờ khai. Chị đầm nói, mấy bà lớn tuổi về đây ở đều bị chết sớm, không khí ở đây rất độc vì dơ bẩn. 


Trong cử chỉ nói năng của tây đầm ở tòa lãnh sự, họ xem tôi là người đồng hương. Tôi cũng nhận thấy có điều thân ái giữa họ và tôi, điều này tôi khó tìm ra được ngay, khi tiếp xúc với đồng bào trên cố hương mình.


Một cảm giác nhói đau trong trái tim, tôi tự hỏi nơi nào là quê hương thực của mình, Pháp hay Việt Nam? Tôi nhìn xung quanh tòa nhà lãnh sự, không khí thoáng mát hơn ngày ấy, ngày mà gia đình tôi lo lắng khép nép, e dè hồi hộp vào làm giấy tờ xin đi ra khỏi xứ sở này.


Ngày ấy, tôi người Việt Nam. Hôm nay, tôi vào đây với thái độ ung dung của một công dân Pháp, được đối xử lịch sự thân tình. Tôi là người gì, Pháp hay Việt? Lúc ở Tây, tôi sống giữa những kẻ khác chủng tộc. Về Việt Nam, tôi thấy mình không hẳn là người Việt. Đó là sự mâu thuẫn rắc rối khá đau lòng.


Tôi sắp sửa trở về Pháp, thấy tôi lăng xăng dọn dẹp áo quần, hình ảnh mẹ vào vali, Bu như cảm thấy một điều gì đó, nó quấn vào chân tôi không rời. Tôi ở nhà bếp nó chạy xuống bếp, tôi lên nhà trên nó chạy lên theo sau bám sát, thỉnh thoảng Bu ngẩng đầu nhìn tôi thắc mắc. Đôi mắt Bu lạ lùng, đôi mắt đen tuyền long lanh và thấm đẫm dịu dàng, đẹp hơn cả mắt người.


Mẹ ơi, bây giờ con mới hiểu tại sao mẹ yêu quý Bu đến thế. Tôi lặng người nhìn đôi mắt tha thiết. Ngày mai tôi đi, không thể đem nó theo cùng, tôi không thể cưu mang nó như mẹ tôi. Phải để Bu lại đây thôi.


 Càng đến giờ ra đi, tôi càng lưu luyến nó, thứ tình cảm ủy mị này tôi chưa hề trải qua với người, nhưng với con động vật này, tôi biết mình cũng yếu đuối quá. Tôi tránh những cử chỉ vuốt ve, sợ làm nặng thêm cho nó, cho tôi, nỗi chia lìa. Bu là tình thương của mẹ, tôi thương nó chính là thương mẹ. Điều này tôi mới vừa nhận biết, tôi trả hiếu mẹ tôi quá muộn màng. Không kịp. 


Tôi và dì đang bàn tính chuyện nuôi nấng Bu. Dì tôi năm nay cũng già yếu, trí óc lẩn thẩn quên trước quên sau. Dì nói con Bu quen ăn sướng rồi, ở với dì ăn cực không biết nó có chịu được không.


Mẹ sáng nào cũng cho nó bánh mì quết bơ, bơ nhiều ăn, bơ ít chê, nó thích ăn thịt bò chứ không ăn thịt heo, phải đi mua xương phở cho nó nhai. Tôi nói tập cho quen có gì ăn nấy, mẹ mất rồi, phải biết thân biết phận chứ. Tuy nói vậy, tôi không tránh khỏi xót xa. 


Buổi sáng lên phi trường, để tránh sự đau lòng của Bu, tôi nhờ người nhà đem hành lý ra xe trước, trong lúc Bu ăn điểm tâm sau bếp, tôi lẹ làng lén ra xe. Khi xe rồ máy, tôi nghe thấy tiếng sủa inh ỏi trong nhà, tiếng sủa tru lên gào thét. Xé lòng. 


Xe ngang qua ngôi nhà thờ có tro tàn của mẹ, nước mắt tôi chảy dài. Có một sinh linh bị hai lần tuyệt vọng, con Bu, một lần mẹ bỏ nó, một lần nữa tôi bỏ nó. Mẹ ra đi không bao giờ trở lại, còn tôi biết bao giờ trở lại xứ sở này, và lúc bấy giờ Bu còn sống chăng. 


Mẹ tôi, một người đàn bà cưu mang tất cả sự khốn cùng rách nát của chiến tranh, cưu mang gánh nặng nỗi nhục nhằn của một kiếp người. Nỗi cô đơn lạnh lẽo xứ người làm mẹ xác xơ, co quắp trước một thói đời ích kỷ, mẹ mất hết hy vọng. Mẹ hoang phế trong đời sống này. Mất quá khứ, mất hiện tại, vô vọng với người thân. Mẹ xa lánh mọi người, chỉ trừ nó, con chó./.

                   

 (không biết tác giả)

Từ trang DĐQGHCTC

 

Xa... Rất ..Thật - Lê Đình Viễn Lan

XA … RẤT.. THẬT!















Lòng thương yêu còn đầy.
Riêng niềm tin đã mất.
Cách xa trong tâm hồn.
Nghĩa là xa… rất thật.
Một lần thôi cho xong.
Chút tình xưa đèo bòng.
Một lần thôi cho quạ
Quãng đời thơ hoa mộng.
Đừng buồn nhau làm chị
Đường đời riêng gắng đi.
Đắng cay này lần cuối.
Chia nhau giờ biệt lỵ
Xa cho tình còn gần.
Hơn gần mà tình xa.
Ta với người đâu thể.
Dối lòng không xót xa… 

Lê Đình Viễn Lan 

Hủ Tiếu Mì Thịt - Trần Văn Phương

 

Hủ tíu mì thịt





Tôi, một nữ sinh dưới quê lên theo một trường đại học ở Sài Gòn, ở trọ nhà anh họ tiết kiệm chi phí. Ngoài thời gian học trên giảng đường, lúc rảnh tôi phụ một tay ở quán hủ tiếu mì của anh ấy mở tại nhà, vừa đỡ một phần tiền học, vừa có thêm chút thu nhập.

Một lần, lúc quán không đông khách lắm, có hai cha con bán vé số dạo bước vô quán. Người cha bị mù. Người con dắt tay cha, và cậu bé chỉ chừng bảy tám tuổi.

Vừa bước vô quán, cậu bé vui vẻ nói: “Cha ơi, quán này hôm nay cho ăn từ thiện. Mình có thể ăn miễn phí đấy. Để con đi xếp hàng.” Rồi cậu dắt người cha mù lòa ngồi trên ghế.

Tôi chưa kịp lại gần thì cậu bé đã chạy lại bên tôi, chỉ tay lên bảng giá, ghé tai tôi thì thầm: “Cô ơi, cô cho cháu hai tô hủ tíu mì thịt loại 30.000 đồng. Cháu có tiền và lát nữa cháu sẽ trả đủ tiền. Cha cháu thèm ăn hủ tíu mì thịt từ lâu lắm mà không dám ăn. Vì cha tiếc tiền. Lát nữa cô cứ bảo quán hôm nay từ thiện miễn phí nhé.”

Tôi nhìn cha con cậu bé quần áo thô ráp lam lũ bụi đường, nhìn đôi mắt mù lòa người cha, lại nhìn đôi mắt trong trẻo của cậu bé, trong lòng rưng rưng xúc động. Tôi bảo cậu: “Hai cha con cứ ăn mì đi. Không cần trả tiền đâu. Hôm nay chị đãi.”

Cậu bé quay lại chỗ ngồi. Tôi vô quầy nơi anh họ đang băm băm chặt chặt, kể vắn tắt lại câu chuyện và bảo 60.000 đồng tiền mì ấy, để lát nữa tôi trả. Anh họ bảo không cần đâu, anh mời họ cũng được mà.

Rồi anh họ làm hai tô hủ tíu mì thịt. Anh không làm hai tô thường loại 30.000 đồng mà làm hai tô đặc biệt. Quán anh họ tôi, tô đặc biệt chỉ nghĩa là mỗi thứ nhiều hơn một chút. Rồi tôi bưng ra cho hai cha con người mù bán vé số ấy.

Quán không đông khách lắm. Trong lúc hai cha con họ ăn, anh em tôi lẳng lặng quan sát. Tôi thấy người cha mù thỉnh thoảng lại lần lần sờ tô của cậu bé rồi gắp thịt sang tô cho cậu bé. Rồi cậu bé lại rình rình lúc người cha không để ý lại gắp thịt bỏ ngược lại tô của người cha mà không để người cha biết. Họ cứ vừa ăn vừa gắp qua gắp lại cho nhau như thế, một lúc khá lâu mới ăn hết tô hủ tíu mì thịt.

Ăn xong, cậu bé đỡ người cha mù đứng lên. Cậu lớn tiếng bảo: “Cám ơn cô chú cho ăn từ thiện.” Người cha mù cũng lập cập nói: “Cám ơn cô chú!” Tôi cười đáp: “Không có chi!” rồi vẫy tay chào họ.

Thế rồi, hai cha con mù bán vé số dạo ấy dắt nhau rời đi. Tôi bảo anh họ: “Thằng bé có hiếu quá!” Anh họ nhún vai, đùa: “Người khổ đầy thiên hạ, làm sao mình giúp được hết? Lâu lâu làm phước thôi nhé, đừng làm phước hoài, có ngày anh dẹp quán.” Tôi cười không đáp, bụng thấy vui vui.

Tôi bưng hủ tíu cho một vài thực khách khác mới vô. Lúc này cha con người bán vé số mù dắt nhau đi đã khuất. Rồi tôi bắt đầu dọn dẹp bàn ăn chưa kịp dọn. Dọn tới bàn ăn hai cha con mù nọ, tôi chợt sững lại.

Tôi gọi anh họ tôi. Hai chúng tôi ngẩn ngơ bùi ngùi nhìn bàn ăn. Nơi đó, dưới một trong hai cái tô, kẹp lại một xấp tiền lẻ vuốt phẳng phiu ngay ngắn. Sau tôi đếm lại, đúng 60.000 tiền lẻ.

Là số tiền cậu bé bán vé số kẹp lại để thanh toán hai tô hủ tíu mì thịt.

 

Trần Văn Phương

Từ trang DĐQGHCTC

Tiếng Gọi Của Con Chim Sáo - Bich Ngân

 

TIẾNG GỌI CỦA CON CHIM SÁO



 

Không khóc sao được khi mỗi sáng ra thăm chuồng, chị vui sướng nhìn những quả trứng trắng ngà lăn lóc đầy chuồng. Những con gà mái lăng xăng mừng rỡ “lóc cóc…lóc cóc…” đón chị bằng một thứ ngôn ngữ mà chị và lũ gà đều ngầm hiểu. Mắt chúng rực sáng, chạy ào cả về phía chị. Chị cười bảo: “Ăn cho no, đẻ cho nhiều nghe…”.
Bây giờ những con gà chết nằm ngổn ngang trong chuồng. Có con chết khi đang ăn. Có con chết khi đang đẻ. Những con sống sót ủ rũ đứng dồn vào một góc. Một không khí lạnh lẽo, tang tóc bao trùm khu chuồng trại. Mấy ngày sau, dù đã được cách ly, sát trùng, tẩy uế chuồng, gà vẫn chết hàng loạt. Chết không kịp chôn. Có người an ủi chị: “Chúng nó đi theo anh Dậu đó chị Hằng ơi!”
Anh Dậu, chồng chị, là kỹ sư chăn nuôi. Anh đổ mồ hôi sôi nước mắt gom góp gầy dựng được một trại gà vào loại bề thế của cái làng ven sông Vàm Cỏ này. Khi trại gà bắt đầu sinh sôi thì anh Dậu bị bệnh nặng và dù chị Hằng đã tất tả ngược xuôi chạy chữa cho chồng, hết trung tâm y tế huyện đến bệnh viện tỉnh rồi lên bệnh viện ở Sài Gòn nhưng anh cũng không thoát khỏi chứng bệnh nan y.
Rồi anh Dậu lặng lẽ ra đi vào một chiều mùa xuân khi nắng tràn vào mái hiên, nơi anh từng nằm sưởi nắng, lắng nghe đàn gà líu ríu ồn ỉ xao động cả một không gian thanh bình và khuấy động cả khúc sông hiền hòa trước mặt. Ba năm trước chị vuốt mắt cho chồng, nay dịch cúm gà đã cuốn phăng công lao gầy dựng vất vả của anh.
Chôn những con gà xấu số xong, chị cho công nhân tạm nghỉ. Ngày hai buổi thắp nhang cho chồng, chị thắp luôn cả nắm nhang cho hàng ngàn con gà đã chết. Thức, chị ngồi lặng hàng tiếng đồng hồ ngoài trại. Chợp mắt, chị hay mơ, những giấc mơ không trọn vẹn với những hình ảnh, những âm thanh không trọn vẹn. Khi thì thấy chồng lúi húi bên trại gà, khi lại nghe anh gọi. Tiếng gọi có lúc thật mơ hồ, khi thì ở bên kia bờ sông, nơi có những bụi hoa mua tím rịm; khi thì nhấp nhới hụt hơi bên những con sóng lao xao; khi thì nghe tiếng kêu đòi ăn của lũ gà; khi thì thấy những ả gà mái núc ních, lông óng vàng, mào đỏ chót đang lóc cóc, lóc cóc…
Trong ngôi nhà ba gian tươm tất của chị còn lại ba sinh linh: con mèo suốt ngày lim dim ngủ, con sáo và chị. Con mèo vừa lười vừa ranh. Lúc nào ả cũng muốn được bà chủ vuốt ve, cứ cọ cái đuôi dài vào chân tay chị bất kể cả những lúc chị đang buồn héo ruột héo gan. Bù lại hơi hướm của nó cũng đủ răn đe mấy con chuột táo tợn mà dường như biết ngôi nhà thiếu hơi đàn ông chúng cứ sục sạo suốt đêm.
Con sáo mới là người bạn thân thiết của chị. Đó là kỷ vật của anh để lại. Một kỷ vật thiêng liêng. Khi vay bạn bè vốn liếng lập trại, một người bạn đã tặng anh con sáo. Người bạn cho biết loại sáo này khôn lắm, nuôi chỉ một năm là biết nói. Con sáo lớn lên, lông đen mượt, mỏ vàng, chân chì linh lợi trong chiếc lồng bằng nan tre mà anh đã công phu vuốt uốn từng nan.
Chị vẫn còn nhớ cái cách anh vót những chiếc nan tre và miệng thì huýt sáo. Rồi mỗi sáng mỗi chiều tiếng huýt sáo của anh và tiếng nói, tiếng cười của anh làm trái tim chị tràn niềm vui. Một năm sau khi con sáo bắt chước tiếng chim chào mào, anh bắt đầu tập cho nó nói. Tiếng đầu tiên là: “Hằng ơi…”. Mỗi lần chị đi qua, anh chỉ tay vào chị, gọi: “Hằng ơi…”. Con sáo ghếch mỏ, nhìn chị một lúc rồi cũng khó nhọc cất tiếng gọi: “Hằng… ơi…”. Một tiếng gọi trầm ấm, rất là đàn ông.
Nhân lứa gà đầu tiên đẻ trứng, cộng thêm sự kiện con chim sáo biết nói, anh chị làm bữa nhậu mời bạn bè đến dự.Tiệc bày ra, chị Hằng bưng mâm đi qua lồng sáo, nó nghển cao cổ hướng về chị và cất tiếng gọi: “Hằng ơi…”. Bạn bè ngạc nhiên, tròn mắt thán phục cái giọng rất ư tình cảm của con sáo. Lý thú hơn, nó lại bắt chước được cái giọng ồm ồm của anh Dậu.
Một người bạn lên tiếng: “Dậu này, cậu mà có đi đâu, nghe con sáo gọi chắc bà xã cậu cũng đỡ nhớ”. Họ xúm lại bên lồng chim dạy nó thêm: “Hằng ơi, anh yêu em lắm”. Con sáo giương cổ cố nhại theo mấy tiếng “anh yêu em lắm” nhưng nghe không rõ, từng âm cứ dính vào nhau như cơm nếp nấu nhão. Nhưng mỗi khi con sáo nói câu ấy, anh Dậu và chị Hằng đều hiểu nó muốn nói: “Anh yêu em lắm…!”.
Chị Hằng cho con sáo ăn một chế độ đặc biệt: lòng đỏ trứng gà trộn với gạo lứt phơi khô, nước uống là nước mưa được hứng từ mái hiên nhà. Dần dần nó nói được nhiều tiếng, nhiều câu. Có ai đến chơi, nó ghếch mỏ chào: “Có khách… Có khách Hằng ơi”. Nhiều khi chị Hằng đi qua, nó nhảy chồm về phía chị, ánh mắt chớp liên hồi như vừa mừng rỡ vừa vui sướng và chào bằng một giọng hết sức tình cảm mà chị cảm nhận được: “Hằng ơi, anh yêu em lắm…”. Chị nghẹn ngào, sững lại, bật thốt thành lời: “Sáo ơi, tao yêu mày lắm!”.
Hôm đưa đám anh Dậu, con sáo xù lông đứng bất động ở góc chuồng, im lìm như một cái xác. Chị Hằng cũng không còn nhớ gì cả để lưu tâm đến nó. Nỗi đau quá lớn khiến chị quên cả việc cho sáo ăn. Rồi khi vừa từ nghĩa trang về, chị nghe một tiếng gọi khá to và ngân dài: “Hằng ơi…!” như tiếng của anh Dậu âu yếm gọi chị. Chị bàng hoàng giữa căn nhà trống vắng rồi thụp xuống ghế, nước mắt trào tuôn.
Cơn xúc động qua đi, chị đứng lên thắp một nén nhang lên bàn thờ anh thì cũng là lúc con sáo liên tiếp gọi: “Hằng ơi, Hằng ơi… anh yêu em lắm…”. Chị hạ chiếc lồng xuống, nhẹ nhàng bắt con sáo đặt vào lòng bàn tay. Hai mắt nó chơm chớp rồi buồn bã gọi: “Hằng ơi…”. Chị rụng rời, y như linh hồn anh Dậu đã nhập vào con sáo, hiện diện trong ngôi nhà này cùng chị.
Con sáo làm chị nguôi ngoai phần nào nỗi thương tiếc chồng. Lạ là từ ngày anh Dậu mất, đàn gà đẻ rất sai. Chị vay thêm tiền ngân hàng, nâng đàn gà từ năm ngàn con lên gấp đôi. Công việc chăm sóc cũng nhẹ hẳn đi nhờ những người công nhân thạo việc và trung thành. Chị Hằng dành nhiều thời gian cho con sáo. Chị thường tưới nước vun bón những chậu hồng quanh đó, lẩn quẩn quanh con sáo để trò chuyện và để thỉnh thoảng được nghe tiếng gọi thiết tha: “Hằng ơi, anh yêu em lắm…”.
Chị đang ăn nên làm ra nhờ trại gà thì dịch cúm gà ập đến. Một trận cuồng phong, một cơn động đất ập đến cũng chỉ hãi hùng như thế là cùng.
Chị như kẻ mất hồn, ngồi lặng lẽ trong căn phòng có treo chiếc lồng chim sáo phía trước. Như chia sẻ nỗi buồn với chị, con sáo cũng ít nói hơn, nhưng mỗi khi chị thắp nhang cho anh Dậu và đàn gà, nó lại ngân lên rất khẽ: “Hằng ơi…”.
Một chiều, khi đang cho chim sáo ăn, ông trưởng ấp bước vào, vẻ mặt nghiêm trang:
– Chị Hằng ạ, tôi biết chị sẽ rất buồn nhưng theo lệnh của thị xã, những ai nuôi chim đều phải giết bỏ để tránh dịch bệnh lây lan…
Chị Hằng không bất ngờ trước thông tin của ông trưởng ấp, nhưng điều đó có nghĩa là con sáo của chị cũng phải đem thiêu hủy! Như bị một nhát dao đâm thẳng vào tim, chị choáng váng không nói được câu nào, mặt tái đi, cứ như là chính chị cũng sẽ phải hỏa thiêu.
Ông trưởng ấp đi rồi, chị đến bên lồng, mở cửa, lặng lẽ đặt con sáo vào lòng bàn tay. Con sáo như cũng hiểu được sự nghiêm trọng của những gì sắp xảy ra với nó, khép nép đưa mắt nhìn chị, như dò hỏi, như muốn được nghe câu trả lời của chị. Trời ơi, kỷ vật của anh Dậu, một con sáo mang hồn người, người bạn thân thiết cùng chị trong ngôi nhà này sắp vĩnh biệt chị. Vuốt nhẹ bộ lông đen mượt của nó, nước mắt chị trào ra…
Sáng hôm sau, khi những thanh niên trong ấp đến nhà chị trong tay là những bao những túi chứa xác nhiều loại chim, chị lật đật bước ra, giọng buồn buồn:
– Đêm qua con sáo nhà tôi bị mèo vồ mất rồi…
Tốp thanh niên định quay ra thì một tiếng ồm ồm cất lên từ trong chiếc tủ đặt khuất sau phòng khách: “Hằng ơi…”. Cả tốp sựng lại lắng nghe. Con chim sáo bị nhốt trong ngăn tủ tối tăm cứ liên tục kêu “Hằng ơi…Hằng ơi…” nghe đau đớn như một lời cầu cứu.
Biết không thể giấu nổi, chị bật khóc như đứa trẻ và đành mở tủ, đem con sáo ra.
Con sáo quẹt quẹt cái mỏ vào mu bàn tay chị rồi nhìn chị, thống thiết cất lên tiếng gọi: “Hằng ơi !”.

Bích Ngân

304Đen – Llttm - OVV

 

Wednesday, December 29, 2021

Người Khách Lạ Bên Sông Chiều - Thuyên Huy

Người Khách l Bên Sông Chiu

Từ ngày người bỏ phố Gò Dầu năm xưa

 













Chiều xuống bên kia sông

Ngập ngừng người khách lạ

Bên này chợ phố đông

Đường rẻ đường mấy ngả

 

Qua cầu áo trắng bay

Tà thương vương tà nhớ

Đong đưa cành phượng gầy

Thánh lễ chiều chuông đổ

 

Người lạ hồn ngẫn ngơ

Muộn chuyến xe khách vắng

Con ngựa già thờ ơ

Gượng chân gầy trĩu nặng

 

Nơi này cũng phố xưa

Một chiều nào quán nhỏ

Ai che nón ngoài mưa

Ai ngồi thương rồi nhớ

 

Lối cũ lạ mà quen

Vẫn là người năm cũ

Cũng chiều muộn lên đèn

Ai đành đi bỏ phố

 

Thuyên Huy

Mùa nắng xa xứ 2021 

Những Giọt Cà Phê - Nguyễn Cang

 NHỮNG GIỌT CÀ PHÊ

Thơ cảm tác:



 

 









Cà phê nhỏ  giọt tình sầu

Lặng nghe trong gió có màu hư không

Người đi bỏ lại dòng sông

Con tim ngóng đợi chờ mong nát nhừ

 

Cà phê nhỏ giọt tương tư

Hương thơm vị đắng tình như mất rồi

Cô liêu một nhánh xa xôi

Làm cho sợi nhớ rớt hoài ly anh

 

Cà phê nhỏ giọt long lanh

Ta như chiếc lá  lênh đênh giữa dòng

Tạ từ em có buồn không

Ly hương ngăn cách long đong tháng ngày

 

Cà phê nhỏ giọt vắn dài

Trăm năm còn lại trần ai khóc thầm

Ôm hoài một khối tình câm

Nghe như vọng tiếng xa xăm gọi về!

 

Nguyễn Cang (Dec. 18, 2021)