Sầu Đi Buồn Ở Lại
Viết từ một phần của một
câu chuyện thật, thay đổi bối cảnh và tên người
Xong bữa
ăn trưa, từ trong cái hẻm nhỏ bên cạnh rạp Casino vừa ra đầu ngõ, nhìn xuôi
nhìn ngược, dợm bước đi, mưa bất chợt đổ xuống ào ào, cơn mưa đầu Thu, không lớn,
làm một cái rào rồi ngưng, mới nắng rực vàng “hừng đông le lói” đó lúc sáng sớm
rồi mưa hồi nào không hay, Sài Gòn vẫn vậy, vẫn là Sài Gòn của nắng mưa bất chợt.
Còn nấn ná chưa đi thì chị thư ký, chắc cũng đi ăn đâu đó về, tay cầm hờ tờ báo
che đầu, mưa còn chút xíu lất phất nhẹ như bụi, vừa vẫy tay gọi vừa băng qua đường,
Hiển gật đầu chờ, cùng nhau trở lại văn phòng. Xế giữa trưa nắng lại rựng sáng
lên, gió đẩy gió đưa từng lớp lá me Thu vàng úa nhỏ nhoi mảnh khảnh, đong đưa
đuổi nhau, lửng lơ bay ngập trời, suốt con đường hẹp Lê Thánh Tôn chật nức người,
tiếng cười tiếng gọi.
Chưa kịp đọc hết
tin tức trang đầu tờ Chính Luận, tiếng chị thư ký nói nhỏ ngoài cửa có khách,
sáng nay ông luật sư thầy đở đầu tập sự cho Hiển, bận ngoài tòa án, chuyện còn
lại nhất là những vụ nhỏ nhặt, gần hơn một năm tập sự, thường thường như hàng
ngày, ông đều giao cho anh lo, có gì khó thì nhận rồi ông giải quyết sau. Đứng
lên, sửa lại quần áo cho có chút ngay ngắn, thong thả tới mở cửa, nép chờ một
bên, người con gái nhìn lên, thảng thốt buột miệng “anh Hiển”, vẫn còn đứng ở cửa chết trân, Hiển lặng người ra, rồi
làm dấu cho cô nàng đi vào trước, theo sau bổng dưng thấy đau nhói buồn buồn, nhẹ
giọng “đã lâu rồi không gặp”.
*
Nhà Hiển nghèo, quê
tận dưới An Tịnh Trãng Bàng, mẹ mất sớm, từ ngày Hiển học lớp Nhì tiểu học, ba ở
vậy một mình, ông có tật chân phải, đi đứng hơi khập khiểng, không khó khăn lắm
nhưng chậm, nuôi con bằng tiền lương đủ sống của công việc sắp bao bố, gom góp
gạo rớt rơi rớt rải, quét dọn, lau chùi máy móc tại cái nhà máy xay lúa lớn
trong chợ quận, cuộc sống không khá nhưng cũng vừa đủ ngày hai bữa cơm, chút rau
miếng cá.
Hiển thi đậu, lên học
Đệ Thất trường tỉnh, nhờ một người dì bà con xa ở miệt Thạnh Phước giới thiệu,
ba gởi Hiển lên ở trọ tại nhà một ông cựu trưởng ty của tỉnh, đã hưu trí từ
lâu, nằm ở ngã tư, trên dốc đường xuống trường trung học, chỗ này có hai anh lớn
và người cháu của bà dì đang ở, học trên lớp Hiển mấy lớp, trong nhà cũng có
hai người con của ông học cùng trường, Phong, người em cùng lớp Đệ Thất với Hiển,
người anh học chung lớp với cháu bà dì ở Thạnh Phước. Có hai cha con, ngày nào
còn hủ hỉ ra vô với nhau, tối lửa tắt đèn, giờ thì mỗi người một nơi, ba thì
thương lo cho con, tội nghiệp thân nhỏ nhoi quá, lo ngày lo đêm, lo trời trở
gió lo mưa lạnh giữa đêm, con thì xa nhà, nhớ nhà, nhớ ba, đêm nằm khóc thúc
thít, mớ gọi ba hởi ba ơi cả mấy ngày đầu, nhờ có Phong, chơi qua chơi lại, ở
trường ở nhà, ra sân ra vườn, bắn bi đánh đáo nên dần riết rồi quen lần, bớt buồn
nhưng vẫn nhớ nhà, dù cái nhà của Hiển lớn hơn cái nhà để xe hơi của ông trưởng
ty không bao nhiêu.
Sau nhà ông trưởng
ty, vườn cây vú sửa rậm lá, bên cạnh nhà để xe có một khoảng sân xi măng rộng
và cái giếng nước, chiều chiều cả đám, lớn nhỏ ngồi tán dốc chuyện trời trăng
mây nước, ngồi ngó qua phía bên cái nhà đâu lưng, cũng có khu vườn sau rộng,
hai ba cây Phượng già bao quanh giàn hoa Giấy đỏ, cách ngăn bởi dãy hàng rào kẽm
gai cao khỏi đầu người, ngó quanh ngó quẩn mong nhìn thấy đứa con gái học cùng
lớp với hai thằng nhóc Hiển và Phong, hái hoa bắt bướm đâu đó sau vườn. Căn nhà
đó, mặt tiền ngó ra đường khác, của một gia đình có tiệm buôn xe gắn máy Honda,
Suzuki... lớn trong chợ Long Hoa, khá giả, bên đó có hai anh em, cũng học trường
tỉnh, cô em gái tên Ngọc Diệp cùng Đệ Thất với Hiển và Phong, khá xinh khá đẹp,
nhất là nốt ruồi son làm duyên trên mi mắt trái, mà hai thằng thường lẻo đẻo
theo sau trên đường, sáng tới trường hay chiều về tan học.
Hai thằng đi theo
sau, riết rồi cũng làm quen được, quen rồi chơi thân từ cuối năm Đệ Thất, nhiều
lần theo Phong qua bên nhà Ngọc Diệp, ba mẹ cô hiền lành, tử tế, ông anh cũng
hiền khô, cười vui dễ mến, có vẻ chịu Hiển, “cứ một thằng Hiển hai thằng Hiển” này kia. Ngọc Diệp, ngày chưa quen
xem ra “chân son gót tía” làm bộ làm dáng nhưng ngày qua ngày lại, giờ
thì nói cười luôn miệng “bình dân thiên hạ”.
Cứ như vậy, ngày
tháng tuổi học trò, sân trường, lớp học, Phượng hè đỏ Thu lá vàng, bốn mùa xuân
đông thu hạ, đường đi về có nhau, không còn người sau người trước, hai cậu một
cô cứ thế mà mỗi một năm học qua là mỗi một năm kỷ niệm thêm nhiều hơn trước dù
chỉ là vụn vặt, mớ kỷ niệm đó lớn dần theo tuổi biết buồn, tuổi biết mình ngấp
nghé sắp làm người lớn, và cũng từ đó, mến thương, nhớ nhung, vấn vương bất chợt
làm Hiển thấy lòng mình nao nao, xôn xao gì đó khi nhớ tới Ngọc Diệp, nhớ đến nổi
có nhiều đêm trằn trọc, trở mình mong sao cho trời mau sáng. Lòng mình thì vậy,
không biết Phong thì sao, có nhiều lần Hiển thấy trong giờ ra chơi, Phong thường
xem ra thẩn thờ đứng nhìn qua bên dãy lầu lớp con gái. Dạo đó, đôi lúc vui miệng,
buổi chiều ngồi nhìn qua bên kia vườn, hai người cười cười, ngó mong ngó ngóng
chờ thấy cho được bóng dáng Ngọc Diệp đâu đó vẫy tay chào, rồi đẩy đưa qua lại
“cho mầy cho tao”.
Giữa năm Đệ Tam, mấy
anh lớn, có người cháu của bà dì ở Thạnh Phước, rời trường, người vào lính người
xuống Sài Gòn học lên, không còn ai ở đó nữa, Hiển cũng dọn tới ở chung với mấy
người bạn cùng quê, tại xóm nhà thiếc, bên này đường ngó qua ngôi nhà ngói cũ,
có cây xoài già um tùm ở một góc cái sân rộng lớn, chỗ ông thầy dạy Đại Số lớp
Hiển và hai ba thầy khác từ Sài Gòn lên ở, cách ngã tư nhà Phong, Ngọc Diệp con
đường quen. Rồi cũng vẫn nói cười bên nhau, tuy Phong không còn chung lớp, vì
anh ta chọn theo ban A, Hiển bên lớp ban B, vẫn cứ tụm ba tụm bốn đi về, nhưng
lối rẽ chia tay sớm, Hiển ngược hướng nhà mình trọ, thấy buồn thấy lo, lo gì
sao khó nói, hai người kia cũng là lối cũ, ngõ xưa.
Hè cuối năm dài hơn
mấy năm trước và cứ muốn trở lại trường sớm, Hiển sợ sẽ vuột mất cái gì đó, cái
gì đó là anh đã yêu Ngọc Diệp thật rồi, nhưng biết làm sao nói ra. Vào học trở
lại không lâu, sau nhiều đêm ngày đắn đo, anh viết lá thư ướm lời tạm đủ trang
giấy, nhờ Phong đưa lại giùm, buổi chiều chia tay chỗ xế ngã tư, Hiển ngại
ngùng, hồi hộp đứng nhìn lại từ xa, Phong nói gì đó với Ngọc Diệp, cô nàng cười,
tiếp tục đi, anh quay nhìn Hiển, đưa tay làm dấu “được rồi” nhưng không thấy cầm lá thư, Hiển đứng chờ hai người đi
khuất sau hàng cây Sao cao, nhìn mông lung, lửng thửng về. Mấy ngày sau đó cũng
chờ nhau tới trường, cũng chuyện xưa tích cũ, Ngọc Diệp cười nói như thường
ngày, không biết có đọc thư chưa, Phong không nhắc gì tới lá thư và Hiển cũng
không hỏi lại, thôi cứ để “sông trôi đời sông suối trôi đời suối”.
*
Đậu Tú tài Một, Ngọc
Diệp không học tiếp mà xuống Sài Gòn vào Quốc Gia Sư Phạm. Năm sau cả hai đậu
Tú tài Hai, Phong vào trường Dược, Hiển ráng trường này trường kia nhưng không khá,
cuối cùng chui vào cả Văn khoa, Luật khoa kiểu “bắt cá hai tay”, mất cái
này còn cái kia, năm đầu qua được cả hai nhưng rồi bỏ Văn, chí thú “một mất
một còn” với Luật với “con đường Duy Tân cây dài bóng mát”. Năm đầu ở
Sài Gòn, tuy không tụm hai tụm ba như những ngày còn học trung học, đi về có
nhau, nhưng cả ba cũng gặp nhau dù không thường lắm, cũng ngồi quán nhạc cũng dạo
phố chiều, người xuôi kẻ ngược. Suốt năm này Hiển vẫn nhớ lá thư gởi cho Ngọc
Diệp, nhưng không lần nào hỏi lại, Phong cũng không có lần nhắc tới.
Ngọc Diệp tốt nghiệp,
chắc là học khá, đậu cao nên may mắn chọn về dạy tại trường tiểu học tỉnh nhà, và
từ những ngày sau đó, Hiển ít khi về tới Tây Ninh, vã lại trên đó đâu còn ai,
đám bạn cũ có thằng tự bỏ đi, có thằng buộc phải đi vì phần số “học tài thi
phận”, cũng vài lần cuối tuần không chịu nổi, nhớ mà nén lòng không nén được
nên vội vã đón xe đò sớm lên tỉnh rồi vội vã về, ghé qua gặp Ngọc Diệp, gọi là
hỏi qua hỏi lại chuyện bây giờ, nhắc vài chuyện cũ rồi thôi, cô nàng cũng vậy,
có cho biết thường gặp Phong hơn mỗi lần về tỉnh, vậy rồi thôi, từ giã ra về, hẹn
gặp lại, Hiển cũng chưa nói ra được nổi lòng, thân phận nhưng anh hy vọng những
gì trong lá thư xưa có lẽ cũng đủ rồi.
Một chiều nắng đầu
hè, sau những ngày thi năm thứ ba, nắng không nắng lắm nhưng trời nóng, oi bức,
trên gác trọ loay quay sắp vài thứ lặt vặt cho sáng mai về Trãng Bàng vài hôm,
thì Hoàng đến tìm, anh bạn chơi thân cùng lớp cả Hiển và Phong, quê ở Trâm
Vàng, thi đậu, Hoàng vào lính Võ Bị Đà Lạt, ra trường chọn binh chủng Dù, đóng
quân đâu đó ngoài vùng 2, được phép về thăm nhà mấy ngày, trên đường chờ trở lại
đơn vị ngày mai, ghé thăm vì cũng khá lâu không gặp, hai người kéo nhau ra cái
quán cơm bình dân đầu đường Trần Bình Trọng ăn cơm chiều, ngồi nhắc chuyện mầy
chuyện tao, chuyện giảng đường sách vở chuyện áo trận giày sô, anh cho biết
cũng có tới thăm Phong bên cư xá Nguyễn Văn Thoại, và Phong báo tin anh ta và
Ngọc Diệp sẽ cưới nhau sau Tết năm nay, mời Hoàng về dự cho vui. Hiển ngớ người
ra, bổng dưng tim đau nhói, có lúc tưởng như ngừng đập, không nói được gì hơn
hai tiếng “vậy sao”, mắt cay xé, trời
bổng dưng lạnh buốt dù ngoài kia, ngoài kia vẫn còn gay gắt những tia nắng vàng
muộn trên đường.
Trước ngày nghĩ Tết,
Phong tới, buổi sáng, báo tin, đưa cho Hiển cái thiệp cưới màu hồng tươi, dặn
dò một hai anh phải có mặt, trước khi về Tây Ninh, Hiển cười chúc mừng nhưng cười
trong xót xa, quặn thắt, chuyện qua chuyện lại nhưng lần đầu Hiển nói toàn chuyện
không đầu không đuôi, trong đầu ẩn hiện lá thư năm nào, Phong thản nhiên “mầy tao” như ngày xưa và có lẽ không màn
biết làm gì, cái thiệp cưới không nhiều chữ nhưng tên Phong, Ngọc Diệp là câu
trả lời cho những chữ yêu trong lá thư mà Hiển đã một lần nắn nót hy vọng một
ngày, như vậy đủ cho anh quên và phải quên từ đây, Phong về rồi, Hiển để thiệp
cưới trên bàn học, nghèn nghẹn khóc một mình. Hiển không về dự đám cưới như đã
hứa, nhờ mấy thằng bạn cùng đám nhắn vì một lý do không có thật là ba anh bị bệnh
nặng, phải lo săn sóc ông ở bệnh viện quận, Hoàng thì đã nằm xuống ở chiến trường
cao nguyên khi tuổi đời vừa quá hai mươi. Qua Tết, vào học lại, hai người không
thường gặp nhau nhiều, thứ bảy chủ nhật Phong không còn nấn ná ở Sài Gòn mà về
tỉnh với vợ, hình như chuẩn bị mở tiệm thuốc Tây, Hiển cũng chưa có lần lên đó và
cũng từ đó Hiển chỉ về tới Trãng Bàng.
*
Xếp hồ
sơ lại, giấy tờ ly dị, hẹn tuần tới, cầm trên tay, Hiển đưa Ngọc Diệp ra cửa,
hơn một tiếng đồng hồ cả hai không nhắc gì chuyện cũ, ngoài vài câu hỏi qua hỏi
lại “vô thưởng vô phạt” của ngày tháng hiện giờ, Ngọc Diệp ra đường, chần
chừ xem ra muốn nói gì đó nhưng thôi, rồi bỏ đi, tới góc phố, cô nàng đứng trước
cửa tiệm Giao bán dụng cụ thể dục thể thao, nhìn lại, Hiển cũng còn đứng trước
văn phòng nhìn theo, một lần nữa vẫy tay chào rồi khép cửa, Ngọc Diệp vẫn còn
đó, nắng xuống, gió từ bến Bạch Đằng lãng đãng lùa về, như ngàn cánh bướm be
bé, từng chiếc lá me chờ nhau đong đưa bay theo trên đường, trời về chiều.
Hiển trở vô phòng,
kéo màn che nắng cửa sổ trên lầu, nhìn xuống ngã tư, nơi Ngọc Diệp đứng lúc
nãy, cô không còn đó, nắng úa vàng từng vạt mỏng, lắc lư xuyên màn bụi thấp
thoáng nhẹ bay trên vĩa hè. Ngồi đọc lại hồ sơ, hai vợ chồng, xin ly dị, mà cả
hai người Phong, Ngọc Diệp tương thuận đồng ý, lỗi ở Phong ngoại tình và sống
lén lút với người con gái khác, tài sản chia đôi, chưa có con, không tranh chấp
nên không cần phải ra tòa, đứng lên nhìn xuống đường lần nữa, mọi thứ, của những
ngày tháng cũ tưởng đã “chôn dưới mộ sâu”, chưa chịu mất, bổng dưng bừng
dậy một lúc, cố xua đẩy nó xa nhưng càng cố bao nhiêu thì nó cứ như cơn lũ dữ ùa
về gần, Hiển lắc đầu thở dài “chỉ là giấc
mơ”.
Hôm tới văn phòng
nhận giấy tờ kết thúc hồ sơ ly dị, chờ chị thư ký tính toán lệ phí, ngồi trong
phòng làm việc, Ngọc Diệp nói rất nhiều về đời mình sau ngày thành hôn với
Phong, buồn nhiều hơn vui, chuyện ngày còn chung trường chung đường đi về, chuyện
phố phường vụn vặt từ những ngày mới quen cuối năm Đệ Thất, Hiển chợt nghĩ một
lần rồi thôi, bèn nhắc chuyện lá thư của hơn năm năm trước, Ngọc Diệp ngạc
nhiên, dường như thật lòng, cho biết “cô
đâu có nhận cái thư nào”, Hiển thở ra, lắc đầu cười “thì ra vậy, chỉ là mấy chữ từ giã thôi”, không nhắc tên Phong, ra về,
có phần vui hơn lần gặp trước, Ngọc Diệp tay mân mê cái bao thư lớn đựng giấy tờ,
nhìn xa xa ra đường nói nhỏ “anh Hiển viết
gì trong thư đó vậy”, Hiển cười không trả lời, hai người hẹn sẽ gặp lại
nhưng không ai nói khi nào và ở đâu.
*
Trưa thứ bảy, ngồi một mình nhìn xuống khu
chợ Hòa Bình trong quán cà phê Tùng, vừa tàn Hạ mà trời Đà Lạt đã trở lạnh sớm,
nói thì nói chứ hình như ngày nào ở đây cũng lạnh, không ít thì nhiều, sương cứ
mờ mờ nhạt nhòa “sương khói mờ nhân ảnh”, che mất nắng, dưới đó, xa xa
ngoài hồ Xuân Hương, đường phố áo len đủ màu lên xuống lại qua, bỏ Sài Gòn, nơi
đã sống một phần đời, buồn vui lẩn lộn, ra đây lo cho chi nhánh văn phòng của
ông thầy, sau ngày chính thức trở thành luật sư cũng gần hai ba tháng, chọn nơi
này, nơi Hiển bằng lòng nhận cho mình một chỗ đi tìm lãng quên ngày tháng cũ,
thôi thì trả lại cho định mệnh để còn chút vui. Uống cạn chút cà phê cuối cùng
còn lại trong ly, Hiển ra khỏi quán, khói thuốc như hơi sương man mác ra theo, trong
máy hát tiếng người ca sĩ quen cũng vừa bắt đầu bài hát gì đó, Hiển đứng lại ở
một góc đường dốc, nhặt cành thông nhỏ lẻ loi khô, ướt hơi sương, nằm một mình
buồn thiu bên lề, vẽ hai chữ “vĩnh biệt” trong màn sương đục trước mặt, cành
thông ngơ ngác vụng về gãy.
*
Ngọc Diệp ra khỏi cửa văn phòng, mắt cay xé,
gói quà trên tay run rẫy, Hiển không còn đó, và cô thư ký mới cũng không biết
anh hiện làm việc ở đâu, đứng rụng rời, thờ thẩn dưới mái hiên tiệm vải kế bên,
trời chợt như tối sầm trước mặt dù đang giữa buổi sáng của một ngày lưng chừng
Hạ, chiếc xe xich lô đạp ngừng vội bên lề, người đạp xe già ngó vào hỏi, Ngọc
Diệp lắc đầu, ôm gói quà lên ngực, lủi thủi đi, đường vắng không có lá me bay, bật
khóc.
Thuyên Huy
Tháng giữa Hạ xứ xa
2021
No comments:
Post a Comment