THƯƠNG TIẾC KHÔNG NGUÔI
Khoảng 1967, tôi có đi theo một
người bạn cốt ý ăn thịt bò nướng tại nhà một giáo sư Mỹ trên đường Duy Tân,
Saigon. Cùng đến có Patrick Honey, chuyên viên về VN trong phái bộ Anh tại hội
nghị Geneve 1954 và là cố vấn của ngoại trưởng Anthony Eden. Chừng mươi thực
khách vây quanh ông trò chuyện một hồi không lâu lắm. Honey nói ông ta
không ngạc nhiên khi nghe tin chiến tranh bùng nổ tuy dưới dạng du kích chiến,
đánh dấu bởi trận Ấp Bắc Bà Bèo (29.09.1959). Theo ông hơi hướng chiến tranh đã
ngửi thấy khi hiệp định Geneve xem như đi đến kết cuộc chia đôi VN tuy chưa ký
kết. Ông đã đánh hơi trong khi tiếp xúc với nhân viên các cấp của phái bộ CS.
Vẫn theo nhà ngữ học nầy, Phạm Văn
Đồng tưởng chừng cường quốc giao hết cả nước Viêt Nam cho HCM vì nước Pháp còn
tệ hơn một thương binh mất cả tứ chi. HCM đã căm hận đàn anh quốc tế không tiếp
tục viện trợ quân sự. Trung Cọng muốn nhân cơ hội nầy chứng tỏ vai anh, ngang
với Nga nên đã cố ép HCM chấp nhận cái khôn ngoan thường tình là có còn hơn
không. CS chuẩn bị ngay từ đầu bằng cách hô hào tập kết ra bắc thành phần mới
được tuyên truyền nhưng để lại thành phần cốt cán.
Thật vậy, về đến Hà Nội, HCM gọi
là tả khuynh các nhóm hay cá nhân nào chủ trương lấy hòa bình xây dựng kinh tế
nâng cao mức sống dân chúng, cạnh tranh với miền Nam. Kinh nghiệm cho thấy rằng
đi theo kiểu phát triển của Triều Tiên chỉ đưa đến thất bại vì phía nam vĩ
tuyến 38, Mỹ đổ tiền rất nhiều mà tài nguyên thiên nhiên cũng hơn. Miền Nam VN
lại được thiên nhiên ưu đãi giàu có hơn nếu đem so bắc nam Triều Tiên.
Cải cách ruộng đất qua đấu tố,
ngoài mục đích làm cho giống như đàn anh CS, nhằm đưa tất cả cơ cấu sản xuất
tập trung cho nhà nước để chuẩn bị chiến tranh. Đoàn ngũ hóa nhân dân cũng đi
vào mục đích ấy. Nền văn nghệ cũng quyết liệt hơn. Không còn nét dân tộc và
lãng mạn như thời kháng chiến. Những tác phẩm có tính cách trực khởi từ tình tự
dân tộc như của Hữu Loan, của Việt Lang... đều bị cấm triệt và các tác giả bị
tù đày. Về lý thuyết và thực tế cái gọi là dân tộc không còn sức kêu gọi trong
giai đoạn mới. Hơn nữa tính dân tộc là xương sống của những thứ cần đả phá để
thay thế bằng lòng yêu đảng và lãnh tụ. Văn nghệ là văn nghệ sản xuất, là tin
tưởng vào lãnh tụ.
Mọi hình thái sinh hoạt, mọi chủ
trương chỉ nhắm vào đánh chiếm miền nam dù với hình thức trường kỳ.
Bằng chứng rõ ràng nhất của âm mưu được tìm thấy trong lời thuyết minh
của Nguyễn Mạnh Tường trước hội nghị các luật gia về hòa binh 1956 tại
Bruxelle (ghi lại trong một hồi ký). Ông đã kêu gọi các đồng nghiệp chấp nhận
vũ trang và bạo động là hòa bình. Đừng ngây ngô mà nói hòa bình và võ trang
khởi nghĩa là hai thực thể tách lìa và đối kháng; hai thứ đó không như ngày và
đêm.
Ông đã than khóc cho một nước VN
bị chia cắt bằng con dao là sông Bến Hải. Nói với luật gia, ông dùng ví dụ
trong nghề, là các phiên tòa ly dị, con sông nầy là nước mắt của đàn con. NMT
đòi thế giới công nhận sự nổi loạn của luật sư Nguyễn Hữu Thọ trong Nam.
"Chúng ta không nên hiểu chiến tranh là cái gì nguy hại, không có lằn ranh
giữa chiến tranh và hòa bình". Ông lên án sự hời hợt trong sự suy
nghĩ của người bình dân, và ông chủ trương nhìn chiến tranh và hòa bình trong
lối suy nghĩ biện chứng, vượt qua lối giải thích nặng phần ngữ âm và cú pháp.
Chỉ cách phía trên chừng mươi
trang, NMT đã phân biệt chính trị và luật pháp. Một bên chính trị là mơ hồ như
ma như quái; một bên là luật pháp rõ ràng có lằn mức giới định. Nhưng đến đây
ông lại kêu gọi các luật gia đồng nghiệp dùng biện chứng cùng tính cách năng
động để hiểu chiến tranh chính là hòa bình, vượt lên trên ngôn từ.
NMT quên nói rằng hiệp định Geneve
1954 được ký kết giữa hai phái bộ quân sự CS và Pháp. Nó tạo nên một hình thái
phần nào giống tình trạng ở vĩ tuyến 38; quân Nhật bị giải giới bởi Nga
phía bắc, Mỹ phía nam; thực tế tạo nên hai nước Triều Tiên. CS đồng ý rút quân
về cố thủ phần chia lãnh thổ, phía bắc vĩ tuyến 17.
NMT mang sứ mệnh do CSVN giao phó,
cùng với Nguyễn Huy Mân chủ tịch tòa án quân sự để chuẩn bị dư luận quốc tế về
âm mưu xâm chiếm miền Nam bằng vũ lực.
Ngoài thực tế chính trị với tiền
lệ rút quân ở Triều Tiên, Miền Nam vẫn có sự liên tục chính thống từ khi Bảo
Đại tuyên bố độc lập sau thế chiến hai. Miền Nam là một quốc gia; chính phủ vẫn
trông vọng một nước Việt duy nhất qua hai phản ứng 1. không chấp nhận dự Hội
Nghị Á Phi với sự hiện diện của BV, 2. không chấp nhận đề nghị cả hai miền vào
Liên Hiệp Quốc (đúng sai không bàn ở đây).
Kêu gọi luật gia thế giới ủng hộ
một cuộc nổi loạn bạo động trong một quốc gia liên tục - ít nhất với lẽ thường
- không có tí gì luật pháp. Đáng lý Hội Luật Gia Dân Chủ nầy phải để ý đến tình
trạng luật pháp tại BV. Hà Nội đã đàn áp đẫm máu các cuộc nổ dậy, ví như vụ
Quỳnh Lưu.
Lời lẽ văn hoa và chuyên nghiệp
trước hội nghị che dấu sư hiện diện của CS trong việc hình thành hiệp định
Genève. Ông chỉ nói một cách trống rỗng về tình trạng chia cắt. Nhưng ai cũng
biết ông đến với một mục đích rõ ràng là bênh vực khởi nghĩa võ trang tại miền
Nam. Ông đã cố tình (hay vì không biết) bỏ lững mối liên hệ giữa Nguyễn Hữu Thọ
và chính quyền BV. Nhưng thiển nghĩ ông dư sức hiểu ông được phái đi không phải
là thừa giấy vẽ voi.
Sau đó trong suốt cuộc hành trình,
qua sinh hoạt với từng phái đoàn riêng, ông đã phê phán thậm tệ nền pháp luật
BV trên lý thuyết và thực hành. Ông rất khắc khe với cải cách ruộng đất, không
tiếc lời xấu xa cho chế độ CS. Nhưng học giả nầy quên hay cố quên rằng chính
thể mà ông cho là tồi bại là phi nhân lại là guồng máy chỉ huy công cuộc mà ông
ca ngợi. Đó là khởi nghĩa võ trang ở miền Nam. Nói khác ông mong chế độ ông chê
trách phủ trùm đến Mũi Cà Mâu. Nếu mấy chữ kế cận trên đây không nằm trong ý
tưởng của ông thì vị tiến sĩ đôi của chúng ta rất ngây ngô, hành sử như
một luật sư chuyên nghiệp; làm việc cho một đơn đặt hàng nguy hiểm, như trường
hợp biện hộ cho một kẻ sát nhân bị bắt quả tang và thú nhận cùng các bằng chứng
rõ rệt.
|
|
Đây chỉ dùng một đoạn ngắn minh
chứng sự chuẩn bị và ý hướng xâm chiếm miền Nam. Ông đã cổ súy sự tự phát võ
trang. Điều nầy không mới lạ mà là một đề tài chính trong tuyên truyền của Hà
Nội.
Tính cách gọi là "nhân
dân" ấy dễ ngụy trang trong du kích chiến. Mà du kích chiến tự nó không
thể giải quyết rốt ráo, phải nhường chỗ cho chiến tranh qui ước và diện địa. BV
đã đi ngược lối tuyên truyền ấy khi cho những đơn vị lớn vượt Bến Hải xâm vào
Quảng Trị 1972; và sau đó chúng ta chứng kiến những trận đánh lớn và xua quân
ào ạt chiếm miền Nam ngày 30.04.75.
Chiến trận kết liễu, phô bày trước
mắt người miền Nam một miền bắc nghèo nàn và bưng bít; phô bày trước mắt người
Bắc một miền Nam không phải là một nhà tù vĩ đại, dân chúng không ăn cơm với
cái gáo dừa. Trước chính sách bần cùng hóa, người miền Nam còn ở trong nước,
phải nghĩ đến cuộc sống khó khăn, ở ngoài nước chỉ nghĩ đến thân nhân. Họ không
có thì giờ để nghĩ đến những người trong cùng chiến tuyến đã chết, vừa chết.
Sự thương tiếc ấy cũng bị lu mờ vì
lòng căm hận đối với ván cờ thí xe lấy chốt, căm hận đối với những kẻ có binh
quyền để lại cái băng nhựa kêu gọi chiến đấu đến giọt máu cuối cùng mà người
thật đã cùng vợ con xô chiếc trực thăng xuống biển sau khi đã đáp an toàn trên
tàu chiến ngoài khơi. Dân chúng không tìm ra trung tướng Thiệu, cái trung tướng
mà người bằng da thịt tên Nguyễn Văn Thiệu bảo đảm hiện hữu, còn cái tổng thống
Thiệu sẽ mất đi. Thì ra tổng thống cũng không, mà trung tướng cũng không.
Tôi không quen ca ngợi kể cả ca
ngợi Phật Chúa. Tôi lại không quen ca ngợi những chiến sĩ mọi cấp đã hy sinh,
vì chính tôi là một quân nhân biệt phái, đi từ quân trường về nhiệm sở cũ và
làm việc tại Saigon cho đến ngày hạ màn. Tôi đã không thấy sự cơ cực của người
lính chiến, tôi đã không trực diện với cái chết kề hông. Tôi cảm thấy không đủ
tư cách đứng lên đọc một lời cảm niệm, khệ nệ đặt một vòng hoa trên mồ chiến
sĩ. Tôi không có quyền hô hào một ai xông vào lửa đạn. Nhưng tôi thấy được phép
ta thán sự vong ân bội nghĩa, "bạc như dân".
Vừa đi tù về, một hôm chờ xe
buýt, phải căng tai mà nghe để tách xa, khỏi di lụy; nhưng nhờ vậy tôi nghe hai
bà nói về cái chết của Phan Thanh Giản mà các sử gia cách mạng cho là vô lối;
Phan Thanh Giản không yêu nước, chỉ có những người như Lê Hồng Phong mới yêu
nước. Chuyện nầy làm tôi liên tưởng sự phê phán của vài bà tướng bà tá đối với
bà Lê Văn Hưng: ông Hưng tự sát là phí đời, không cần thiết, không khôn ngoan
tí nào.
Phải rồi, những bà ấy hằng ngày
tại Saigon điều khiển mười sáu ông tướng bốn màu nên xem các ông tướng như
Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng không hơn gì con bài tứ sắc. Hàng ngày các bà điều
khiển cả tiểu đội, nào lái xe cho bà đi chợ, lái xe cho con đi học, các bà có thể
ăn lương của họ vì họ mưu cầu chữ thọ, điều khiển họ như tôi tớ. Vì vậy các bà
không thể quan niệm cái hào hùng của anh lính trận, không thấy huynh đệ chi
binh. Trong vài ngày cuối ở Cần Thơ, tướng Nguyễn Khoa Nam đi thăm bệnh viện dã
chiến; một thương bệnh binh cố sức chồm ôm ông, vừa khóc vừa nói: trung tướng
đừng bỏ em.
Các bà mang cấp bậc của chồng ấy
tốt nhất nên ngậm miệng ăn tiền, vì rất có thể các đức ông chồng đang hung hăng
trên diễn đàn cộng đồng, đứng đầu các tổ chức cựu quân nhân, bộ trưởng trong
các chính phủ lưu vong. Ở đời có những người mình gặp mà không nói thì mất
người, có người mình nói thì mất lời. Chị Hưng ơi, nói với họ làm chi, chị ơi.
Các bà thì sao cũng được còn các
ông thì coi không được. Vài ông đã trở cờ. Nhưng điều buồn cười nhất là tất cả
các vị ấy, dân sự, quân sự, văn nghệ sĩ đi đúng một khuôn thức: phải chửi lại
cộng đồng, và chửi lại quân đội, hai tập thể đã cưu mang họ trong suốt cuộc đời
họ. Không chửi như thế có được không? Đó là điều kiện của Hà Nội chăng?
Tôi không nghĩ như vậy, mà đây do
tâm thức của kẻ qui hàng rất chi là Đông Chu Liệt Quốc. Ngày xưa Ngô Khởi tự ý
giết vợ để cho vua tin. CS đa nghi, các vị ấy phải theo bài học của nhà
quân sự Xuân Thu nầy. Rõ ràng, cứu cánh biện minh cho phương tiện; mà đây lại
là phương tiện không cần thiết.
Nếu những người nầy thật sự là CS
từ đầu (đảng viên hay nằm vùng) nay trở về chủ cũ; đó là những điều đáng buồn,
họ không đáng trách. Nhưng đáng miệt thị là những kẻ từ trong trứng nước, lớn
lên, giàu có trong ân huệ của miền Nam, hưởng không khí tự do (dù tương đối)
quay trở lại làm hại cho miền Nam. Họ thuộc nhiều thành phần trong xã hội, và
cũng là nhóm nhiều mồm mép nhất. Họ đáng bị nguyền rủa, trong lúc chúng ta
không khinh thị những cán binh CS thực tâm tin tưởng như họ được tuyên truyền.
Lớp nầy giống như kẻ bán khai chặt cây táo mà hái trái trong lúc người văn minh
dùng thang mà hái rồi tưới nước cho cây.
Trường hợp tệ hại nhất, theo tôi,
một ông tướng đã nói rằng nếu quân miền Nam giải phóng miền Bắc thì sự sát hại còn
ghê gớm bội phần những điều đã xẩy ra sau 1975 bởi CSVN. Con cá sẩy bao giờ
cũng lớn; vì con cá ấy chưa có trong tay, tự mình cảm thấy nó to hay tự ý khếch
đại. Có câu hỏi trong Cổ Học Tinh Hoa, vẽ ma dễ hay vẽ người dễ; vẽ ma thì dễ
quá, cái mũi không cần cân xứng, vẽ năm mười cái sừng cũng chả sao, nanh dài
đến rốn càng tốt.
Biện lý cuộc đã xin tòa phán quyết
tử hình cho một kẻ ăn cắp quả trứng gà. Quả trứng gà sẽ thành con gà, con gà sẽ
thành bầy gà, sinh ra nhiều tiền, đem tiền đi đầu tư sinh lợi có thể xây cả
trăm thành phố. Tòa giảm còn chung thân. Không một ai biết quả trứng có trống
hay không.
Hy vọng lối suy diễn ấy chỉ mới có
trong sự thôi thúc đặc biệt trong hoàn cảnh hiện nay, để xin điểm, để làm quà
của hàng tướng như Ngô Khởi dâng thủ cấp của vợ. Nhưng nếu lối suy luận ấy nằm
lòng từ khi các vị ấy còn nắm quyền ở VN, thì khỏi giải thích vì sao con cháu
Lạc Hồng chạy re không đem theo được cái mền rách.
Bên trên, tôi có nêu lời Nguyễn
Mạnh Tường chỉ trích cái nhìn bình dân, chưa đạt đến mức biện chứng. Nhưng tôi
là người bình dân, tôi có cái nhìn rất bình dân.
"Thưa ông, đây là chồng tôi,
mới được về hôm nay, xin ông vui lòng cho chồng tôi ở lại vài ngày". Tôi
đi theo nhà tôi như đứa tớ dưới làng lên tỉnh giúp việc, qua nhà ông công an
khu vực. Ông bất động như một thiền sư chìm sâu trong tam muội. Tôi nghĩ thầm
nếu ông không gật đầu, thế nào tôi cũng phải ra chợ Nguyễn Tri Phương ngủ, chứ
ở trong nhà thì trăm điều khốn khổ xẩy ra. Nhà tôi nhanh trí nói: Xin ông cho ở
chừng ba ngày để sắp xếp đưa mẹ con tôi hồi hương, giao nhà cho chính quyền.
Ông ta bậc dậy như ai lấy kim chích đít: "Được, lo sắp xếp mà đi đi
nhe".
Căn nhà xập xệ nầy cũng giống như
con trâu của một nông dân ngoài Bắc. Con trâu phải dâng hiến cho hợp tác xã,
mong họ lấy cho mà đừng đấu tố chủ nhân, đừng xếp vào hàng địa chủ. Cũng giống
như nhân viên xã vào nhà đếm gà thấy thiếu một con, không tin là chồn bắt mà
đưa gia chủ ra kiểm thảo giết lén con gà sản xuất, trái với tinh thần đạo đức
cách mạng.
Nhờ ơn trời đất, nhờ ơn ông bà tổ
phụ, tôi có tròm trèm dăm ba chữ tuy không đi đến đâu về duy vật biện chứng, lý
thuyết Marx. Tôi không dùng những thứ ấy để nhìn những việc xẩy ra chung quanh.
Tôi chỉ là ông nông dân có con trâu làm việc trên đồng cạn dưới đồng sâu nay
phải từ bỏ nó mà chưa chắc đã an thân.
Tôi cầu mong các thân hữu chia xẻ
cái nhìn bình dân của tôi. Tôi không muốn căn nhà bị chiếm đoạt (bị ép mà dâng
hiến), tôi không muốn vợ tôi bị xỉ mặt mắng là thứ vợ ngụy, tôi không muốn con
mất các quyền học hành ...và tôi biết trên cuộc đời nầy, có những con người -
dù không thành công - hy sinh tính mạng trong mục đích làm cho những việc ấy
không xẩy ra. Tôi tri ân những người ấy.
Một ai đứng trên bờ nhìn ra đại
dương mà thấy trong lòng biển nước có xác của vợ mình, của con mình cùng với
cái máy đuôi tôm khi chiếc ghe không chịu nỗi sóng dập; người ấy cũng biết rằng
trên mãnh đất đau khổ của quê nhà, có những kẻ - tuy chưa thành công - đã hy
sinh cuộc đời trong mục đích làm cho việc ấy không xẩy ra. Hãy biết ơn những
người vô danh ấy.
Một ai thấy miếng đất hương hỏa
của mình dành xây nơi thờ cúng tổ tiên nay nằm dưới khu nhà tắm cầu tiêu của
một dinh thự mới, khi tự an ủi với lý thuyết vô thường, vô sở trụ ... vẫn biết
có những kẻ đã hy sinh trong mục đích ngăn chân điều nầy xây ra; họ thất trận,
lắm người quên đi.
Tôi đã mời các thân hữu dạo quanh
một vùng rất rộng lớn với ý niệm chiến lược cùng vài nét sơ phát của bối cảnh
1954 rồi đi đến cái nhìn rất nhỏ hẹp bình dân, không kinh điển, không học vị.
Cũng giống như hình cái phểu lớn trên bé dưới, đầu voi đuôi chuột. Tôi ước mong
cái nhỏ nhoi ấy là nhịp thở e ấp, thầm kín, chân thật và có thật. Mỗi cái nhìn
riêng tuy nhỏ bé mà sâu sắc cho từng cá nhân. Cọng chung những thể nghiệm ý
thức ấy, chúng ta sẽ có một luồng hơi ấm mới, khơi nóng bầu không khí có phần
lạnh nhạt vì thời gian và những yếu tố xâm thực từ bên ngoài. Những khẩu hiệu
to lớn ồn ào làm điếc tai không ai nghe; những lời sâu sắc từ tốn thì cô đơn,
ít ai nghe.
Giữa hai sự thể ấy là những con
người sống thực như mỗi chúng ta trực diện những mất mát, những khổ đau cho
chính mình, cho gia đình, cho những người chung quanh. Chúng ta không bị xung
động bởi bất cứ ngọn gió nào. Chúng ta có những câu hỏi rất người rất đơn giản
và giải đáp ngay.
30.4 chấm dứt một sự cố gắng vô
song của rất nhiều chiến sĩ trong mục đích tối hậu chận đứng ngày thảm não ấy.
Rất tiếc, thiên cơ đã không giúp họ ngăn chận cảnh nước mất nhà tan và giúp
chúng ta khỏi gánh chịu những tai ách trong từng hoàn cảnh cá nhân riêng rẻ.
Những hy sinh âm thầm ấy biết kể
làm sao cho hết. Nhưng có kể, cũng xin đừng quên những di lụy trực tiếp của sự
kiện những người nằm xuống. Đó là những "sư đoàn" cô nhi quả phụ,
những thiếu phụ lo cho chồng thương tật, những bà mẹ cưu mang những đứa con trở
thành bất túc, những đứa con không cha như nhà không nóc.
Bức tượng Thương Tiếc đã bị đánh
ngã ở nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Đầu ngàn năm mới, Taliban đã phá hủy hai
tượng Phật vĩ đại từ thời A Lịch Sơn Đại Đế (Alexandre le Grand). Hành vi ấy
chỉ thỏa mãn sự kiêu căng của lãnh tụ Hồi giáo nầy và thiệt hại kỹ nghệ du lịch
tại chỗ; nó không suy siển tinh thần tôn giáo của thế giới và của người theo
Phật.
Cũng thế, Taliban VN đã phá hủy
tượng Thương Tiếc bên xa lộ Biên Hòa; nhưng họ không thể trục hạ sự thương tiếc
trong mỗi chúng ta. Bức tượng tâm thức ấy, ít nhất, mỗi năm được đem ra
sơn phết một lần vào ngày mất nước. Bức tượng ấy không có quá khứ, không có
hiện tại, không có tương lai; bức tượng ấy không riêng gì của người mặc áo trận
mà của mọi người. Trong tượng ấy, có người đã chết, có người đang sống và còn
sống mãi.-
Tôn thất Tuệ
Từ trang DĐQGHCTC
No comments:
Post a Comment